Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
190560

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ THỌ SƠN

Ngày 02/03/2020 10:14:41

LÍCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ THỌ SƠN

 

VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

 

I.KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XàHỘI

1. Điều kiện tự nhiên

Thọ Sơn là một trong 3 xã miền núi, nằm ở phía tây của huyện Triệu Sơn, cách trung tâm huyện khoảng18 km cách thành phố Thanh Hóa khoảng33kmvới diện tích tự nhiên 1.173ha, trong đó: đất nông nghiệp: 673ha, đất lâm nghiệp: 215ha, đất trồng cây công nghiệp: 318ha. Phía bắc giáp Nông trường Sao Vàng và xã Xuân Thắng huyện Thọ Xuân; phía đông giáp xã Thọ Cường và xã Thọ Tiến; phía nam giáp xã Thọ Bình; phía tây giáp xã Bình Sơn.

Địa hình thổ nhưỡng:

Trên bản đồ tự nhiên Thanh Hóa, Thọ Sơn nằm ở vùng chuyển tiếp của đại ngàn phía tây giàu có về sản vật và vùng đồng bằng trù phú phía đông của tỉnh. Chính vì vậy địa hình của Thọ Sơn tương đối phức tạp xen kẽ các dạng địa hình đồng bằng, vùng bán sơn địavà miền núi,

Đi từ trung tâm huyện Triệu Sơn về xã, trên đất Thọ Cường vẫn còn cảm giác như đi giữa biển lúa vàng rực hai bên đường. Vượt qua gianh giới giữa Thọ Cường và Thọ Sơn đến làng Bái Đề, làng Pheo vẫn còn cảm giác cảnh quê của vùng đồng bằng, nhưng vườn tược hai bên đường đất đã nhuốm màu nâu đỏ (một loại đất đặc trưng của vùng bán sơn địa) và ngước mắt nhìn về phía tây đã thấy dăng dăng những dãy núi trước mặt trong mờ sương. Từ công sở xã tiếp tục đi về phía tây cảnh vật liên tục thay đổi. Những cánh đồng thu nhỏ dần rồi chỉ còn những khu đồng nhỏ nằm kẹp giữa các đồi núi. Thực chất đây là những thung lũng núi được người dân khai phá, cải tạo để trồng lúa nước. Trên đường đi đến làng Nác Nả thì núi tiếp núi, đồi tiếp đồi hiện ra ngày càng rõ nét hơn. Trước Cách mạng tháng Tám thì đây còn là rừng rậm hoang vu với nhiều tre nứa, gỗ quý, chim muông, khỉ, vượn…. Lọt thỏm giữa màu xanh đại ngàn là những nếp nhà sàn của người Mường, người Thái và sau này có thêm nhà của người Kinh trên các sườn núi.

Là xã miền núi, nên trên địa bàn Thọ Sơn có nhiều đồi núi như: Đông Đình, Đông Cao, Đông Dốc Đất, Đông bờ Tây Keo Ranh, núi đá vôi, Ngô Công, Ngọc Mép… Đây là một phần của dãi núi trung du từ dãy núi phía tây của tỉnh như: Ngọc Lặc, Lang Chánh, Thường Xuân kéo trườn thấp xuống các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn… Chính vì vậy, từ vùng đồng bằng nhìn lên thấy cả một hệ thống núi kéo dài như một bước trường thành khổng lồ.

Do vị trí nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng nên thành phần thổ nhưỡng ở Thọ Sơn khá phong phú. Ở các làng phía đông của xã như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa chủ yếu là đất phù sa không được bồi đắp hàng năm do các đợt biển tiến, kết hợp với đất phong hóa của vùng đồi núi được tích tụ hàng triệu năm mà thành. Các làng phía tây của xã như Nác Nảcó thành phần thổ nhưỡng điển hình của vùng miền núi. Trên các đồi núi chủ yếu là đất nâu đỏ, nâu vàng được hình thành trên đá mác ma-bazơ trung tính. Dưới chân núi là những cánh đồng trồng lúa nước thuộc nhóm đất lầy thụt. Nhóm đất này có lượng mùn cao, nghèo ka li, đất thường chua do ngập úng quanh năm nên khi sản xuất cần phải cải tạo nhiều.

Ở Thọ Sơn không có những cánh đồng trải dài mà được ngăn bởi những đồi núi, làng mạc. Đối với các làng phía đông, đồng trải dài trước, hoặc sau làng, các làng phía tây của xã thì những cánh đồng lúa nước thường men theo các thung lũng núi.

Đất đồi núi chiếm diện tích khá lớn. Trước đây, khi rừng chưa bị tàn phá đất ở đây tương đối tốt, thảm thực vật dày với nhiều gỗ qúy, chim, thú phong phú. Đây là loại đất thuận tiện cho cây công nghiệp dài ngày, khi đất bị rửa trôi giảm chất mùn thường phát triển thành rừng với những loại cây gỗ và cây bụi, nay được nhân dân trồng rừng, chủ yếu là các loài cây chịu được hạn như: keo lá tràm, bạch đàn, phần đất có độ dốc nhỏ hơn thì trồng cây ăn quả và cây công nghiệp, như: chè, dứa, mía...

Nếu tính theo độ dốc, theo trắc địa gần đây thì:

Đất có độ dốc dưới 150 có 238ha chiếm 20%.

Đất có độ dốc 15 - 200 có 502ha chiếm 42%.

Đất có độ dốc trên 200 có 453,73ha chiếm 38%.

Với tình hình phân bố thổ nhưỡng và địa hình như vậy, cho thấy việc sản suất lúa nước ở đây gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng Thọ Sơn lại thuận lợi để phát triển nền kinh tế nông lâm nghiệp kết hợp với nhiều loại cây trồng và vật nuôi phong phú.

Khí hậu:

Thọ Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đặc điểm chung của kiểu thời tiết này là ngoài việc phân hóa theo vĩ độ còn chịu tác động sâu sắc của hai mùa gió trên một nền nhiệt và ẩm phong phú.

Từ tháng 5 đến tháng 10 là thời kỳ hoạt động mạnh của gió mùa Đông Nam, còn gọi là gió nồm, có nguồn gốc là khối không khí hải dương nên mang nhiều hơi nước. Đây là một trong những tác nhân quan trọng khiến mùa này có lượng mưa lớn nhất trong năm. Vào khoảng tháng 8, tức là tháng 7 âm lịch có dải hội tụ nhiệt đới vắt ngang qua, Thọ Sơn thường có kiểu thời tiết đặc biệt, khi tạnh khi mưa, khiến nhân dân ta liên tưởng đến mối tình dang dở của vợ chồng nhà Ngâu. Một kiểu thời tiết khác là bão, thường có sức gió mạnh kèm theo mưa lớn, có tác hại tàn phá nhà cửa, mùa màng ghê gớm. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng lại xuất hiện những đợt gió Lào có tính chất khô nóng. Tuy tần suất không nhiều nhưng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây cối và sinh hoạt của nhân dân.

Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là thời gian hoạt động mạnh của gió mùa Đông Bắc, còn gọi là gió bấc. Đây là khối khí lục địa, xuất phát từ vùng Xi-bi-ri và Trung Á, có tính chất khô lạnh, trùng hợp với thời kỳ khô lạnh ở địa phương. Chính sự xuất hiện của gió mùa khiến nhiệt độ giảm xuống mạnh, đôi khi chỉ trong 24 giờ giảm xuống 100C. Tuy nhiên, sự phân chia thời gian như trên chỉ là tương đối, vì bản thân thời tiết luôn có tính chất thất thường. Nhiều năm tháng 10 đã xuất hiện những đợt gió mùa Đông Bắc, ngược lại có khi đến tháng 6 vẫn chưa có lụt tiểu mãn, điển hình là năm 2010, tháng 7 vẫn còn bị hạn, các hồ thủy điện không tích đủ nước dẫn đến thiếu điện trên diện rộng. Giữa hai mùa là thời kỳ chuyển tiếp có thời tiết tương đối dễ chịu. Giữa mùa Đông và mùa Hạ là mùa Thu. Từ tháng 2 đến tháng 4 trước khi có lụt tiểu mãn thường có mưa phùn, đôi khi tạo nên kiểu mưa thâm, gió bấc rất đặc trưng của khu vực. Dân gian gọi là rét Nàng Bân. Do địa hình miền núi nên mùa này ở Thọ Sơn thường xuất hiện nhiều sương mù, là kiểu thời tiết rất đặc trưng của miền núi, trung du. Giữa mùa hạ và mùa Đông là mùa Thu. Từ giữa tháng 10 đến tháng 11 thời tiết mát mẻ, dễ chịu, nhưng nhiều năm vẫn còn mưa lớn, bão, thoảng hoặc xuất hiện những đợt không khí lạnh trà về nhưng cường độ yếu. Nhìn chung khí hậu ở Thọ Sơn thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp lúa nước với nhiều sản vật nhiệt đới phong phú, bên cạnh đó lại xuất hiện những giống cây từ ôn đới nhập về do sự xuất hiện của một mùa đông giá lạnh như: cà chua, cải bắp, súp lơ, khoai tây, các giống hoa...

Thủy văn:

Thọ Sơn không có con sông tự nhiên nào lớn chảy qua, chỉ có hệ thống khe suối từ trên núi chảy ra. Lớn nhất là suối Hón Cùn – khe Chạp chảy từ vùng núi phía tây về qua Bao Lâm (Bình Sơn) có tên là Hón Lày – Cây Bi chảy vào hồ đập Dốc Đất về Thọ Bình, Thọ Sơn gọi là Hón Cùn. Ngoài hồ Dốc Đất, Thọ Sơn còn có hồ Ngọc Mép, hồ Ngô Công. Trong đó hồ Ngô Công lớn nhất với diện tích 41ha, lưu lượng nước khoảng 1,5 triệu mét khối nước. Ngoài các hồ trên cung cấp nước cho sản xuất, Thọ Sơn còn có hồ Phú Vơng là hồ tự nhiên rộng trên 3 mẫu nay đang được nhân dân Bái Đề và làng Pheo cấy lúa kết hợp nuôi thả cá. Trên địa bàn xã còn có chi giang 6 đi qua, hệ thống ao hồ nhỏ dùng để giữ nước và nuôi cá. Với diện tích 160ha ao hồ, Thọ Sơn được coi địa phương có mặt nước lớn của huyện Triệu Sơn.

Nhìn chung, thủy văn Thọ Sơn không mấy thuận tiện cho sản xuất. Trước đây, mỗi khi có mưa lớn nước từ trên núi đổ về tàn phá hoa màu, nhà cửa, giao thông… Từ những năm 1960, Thọ Sơn tiến hành đắp đập ngăn các khe suối thành hồ vừa để ngăn lũ ống, lũ quét, vừa giữ nước để phục vụ sản xuất. Đó là những công trình minh chứng cho lòng quả cảm, sức sáng tạo của cán bộ và nhân dân trong xã trong việc chế ngự thiên tai, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Hệ thống giao thông:

Là một xã miền núi, từ thời xa xưa, việc đi lại của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đường làng, ngõ xóm nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, mưa xuống là lầy lội, bẩn thỉu. Làng này qua làng nọ chủ yếu men theo các triền núi, bờ ruộng, rừng rú, cây cối rậm rạp, lại sợ rắn rết thú dữ nên rất khó đi. Từ khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp đưa nhân dân vào làm ăn tập thể, hệ thống giao thông nội thôn, liên hương mới được chú ý cải tạo nhưng nhìn chung còn rất khó khăn, lạc hậu.

Những năm gần đây từ khi có phong trào xây dựng làng bản văn hóa, sau đó là phong trào xây dựng nông thôn mới nhân dân đã tự nguyện đóng góp, cùng với ngân sách xã và sự hỗ trợ của Nhà nước, địa phương đã tiến hành tu bổ hệ thống giao thông, cải tạo, đắp mới các tuyến đường. Đến nay các tuyến đường vào làng, hệ thống đường thôn xóm đều được mở rộng, đổ bê tông khiến bộ mặt làng quê ngày một khang trang, sạch đẹp. Tuyến đường liên xã từ trung tâm huyện qua các xã phía dưới về xã được đắp từ những năm 70 của thế kỷ XX, từ năm 2008 được rải nhựa. Từ năm 2017 được đưa vào sử dụng chạy qua trung tâm xã, Thọ Sơn từ một xã miền núi đi lại khó khăn trở thành một địa phương có giao thông thuận tiện. Đây là cơ hội để địa phương phát triển kinh tế - xã hội, ở địa phương.

2. Dân cư và hệ thống chính trị:

Dân cư:

   Trước Cách mạng tháng Tám, dân số Thọ Sơn chỉ chưa đầy 1.000 người. Đến năm 2019, toàn xã có 5.335 người, trong đó nam chiếm 49,7%, nữ chiếm 50,3%. Số lao động đã qua đào tạo chiếm 21%.

Về thành phần dân tộc, có 3 dân tộc chính gồm:

Dân tộc kinh chiếm 55,4%.

Dân Tộc Mường chiếm 36,9%.

Dân Tộc Thái chiếm 7,7%.

Phân bố dân cư chủ yếu theo đơn vị làng bản. Dân tộc Mường, dân tộc Thái có 416 hộ tập trung nhiều ở các làng: Đồng Ao, Nác Nã, Đồng Sang, Đồng Cốc, Ngô Công… Dân tộc kinh chủ yếu ở các làng: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa, Đông Thành và các làng còn lại[1]. Tuy nhiên, trên thực tế có sự xen cư của các dân tộc trên cùng một làng tạo thành thể thống nhất, đoàn kết.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), nhất là khi hệ thống giao thông phát triển, nhiều hộ có xu hướng mua đất làm nhà ra khu trung tâm hình thành các khu dân cư mới, sự phân bố dân cư không còn khép kín sau lũy tre làng.

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, dân số tăng nhanh do điều kiện y tế tốt hơn, cùng với số dân từ nơi khác đến sinh sống do chủ trương xây dựng kinh tế miền núi của Nhà nước vì vậy dân số tăng nhanh.

Những năm gần đây, chất lượng dân số ngày một được nâng lên, tuy nhiên tỉ lệ lao động chưa được đào tạo còn khá lớn, bởi vậy bài toán giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động đang được chính quyền địa phương và các cấp, các ngành cấp trên chú ý giải quyết.xa. Hiện nay công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng phát triển, nhiều nhà máy, xí nghiệp xuất hiện trên địa bàn huyện, nhiều người Thọ Sơn đã trở thành công nhân ở đây theo xu thế “ly nông bất ly hương”.

Về tín ngưỡng: nhìn chung dân cư ở Thọ Sơn không theo tôn giáo nào rõ rệt, nhưng ảnh hưởng của đạo Phật, đạo giáo, đan xen với tín ngưỡng của dân tộc Mường, dân tộc Thái vẫn song song tồn tại. Trong các gia đình hiện nay đều thờ cúng thổ công và thờ cúng gia tiên.

Hệ thống chính trị

Tổ chức Đảng

Đến đầu năm 2019, Đảng bộ Thọ Sơn hiện có 277 đảng viên, được tổ chức thành 11 chi bộ. Số đảng viên ở các chi bộ như sau:

          Chi bộ 1: 24 đảng viên.    

          Chi bộ 2: 31 đảng viên.

          Chi bộ 3: 35 đảng viên.   

          Chi bộ 4: 29 đảng viên.

Chi bộ 5: 43 đảng viên.

Chi bộ 6: 33 đảng viên.

Chi bộ Trường THCS: 18 đảng viên.

Chi bộ Trường Tiểu học: 23 đảng viên.    

Chi bộ   Trường Mầm Non: 9 đảng viên.

Trong những năm qua, Đảng bộ luôn đạt trong sạch, vững mạnh. Tỉ lệ đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ luôn đạt cao, luôn tiên phong trong các phong trào ở địa phương, có sức lôi kéo quần chúng tham gia hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, xây dựng quê hương giàu mạnh.

Đảng bộ Thọ Sơn luôn là một Đảng bộ mạnh, có sức chiến đấu cao, là trung tâm khởi xướng, lãnh đạo và tạo dựng các phong trào cách mạng, đưa địa phương từ một xã nghèo khó vươn lên giành nhiều thành tích trong phát triển kinh tế - văn hóa, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.

Tổ chức chính quyền.

Với phương châm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng bộ hết sức coi trọng công tác xây dựng chính quyền, coi đây là nhân tố quyết định đểmọi chủ trương, đường lối của Đảng trở thành hiện thực sinh động trên mảnh đất Thọ Sơn.

Từ thực tiễn cách mạng ở địa phương, Đảng bộ phát hiện, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Coi việc xây dựng đội ngũ có ý nghĩa then chốt trong việc xây dựng chính quyền.

Liên tục trong nhiều năm nay, Hội đồng nhân dân  và Ủy ban nhân dân ngày càng làm tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở. Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc ra Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, điều hành, quản lý của Ủy ban nhân dân ngày càng hiệu quả, khoa học sát với thực tế địa phương, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc  xã là tổ chức chính trị tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp với các tổ chức xã hội trong địa phương tiến hành cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, cuộc vận động ngày vì người nghèo, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới”... đã mang lại hiệu quả to lớn trong đời sống cộng đồng.

Các đoàn thể: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... của Thọ Sơn luôn là đơn vị mạnh của huyện, đạt được nhiều thành tíchxuất sắc trong công tác, được huyện khen thưởng nhiều lần.

Qua mấy chục năm xây dựng, tổ chức Đảng, hệ thống chính trị của Thọ Sơn đã từng bước trưởng thành, lãnh đạo nhân dân xây dựng quê hương ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Ngày nay đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước mắt là hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

3. Lịch sử hình thành cộng đồng dân cư

Lịch sử hình thành và phát triển của xã Thọ Sơn luôn gắn liền với lịch sử huyện Thọ Xuân và huyện Triệu Sơn. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra)”, được biên soạn vào thời Gia Long([2]), thời gian này huyện Thọ Xuân có tên là huyện Lôi Dương có 10 tổng, 139 xã, thôn, trang, sở, vạn, ấp. Đến thời Đồng Khánh (1858 - 1888), huyện Lôi Dương có 9 tổng gồm 221 xã, thôn, tộc, sở, trang, vạn, ấp([3]). Trước Cách mạng Tháng Tám, phủ Thọ Xuân có 10 tổng, 180 thôn, làng, 24 bản. Các tổng gồm: Bái Đô, Mục Sơn, Diên Hào, Kiên Thạch, Tam Lộng, Nam Dương, Bất Nạo, Phú Hà, Quang Yên, Thượng Cốc.

Các làng của Thọ Sơn lúc bấy giờ thuộc tổng Tam Lộng và tổng Kiên Thạch([4]).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23 - 11 - 1945, Chính phủ có sắc lệnh bỏ đơn vị tổng, thành lập đơn vị hành chính xã, xã Thọ Sơn được thành lập trên cơ sở các làng truyền thống trên địa bàn xã ngày nay. Năm 1948, Chính phủ có chủ trương sáp nhập các xã nhỏ thành xã lớn, xã Thọ Sơn sáp nhập với xã Duy Tân (Thọ Ngọc) và xã Đoàn Kết (Thọ Cường) thành xã Thọ Ngọc.

Tháng 9 năm 1954, Thọ Ngọc (cũ) được chia thành 3 xã là: Thọ Sơn, Thọ Cường, Thọ Ngọc (mới). Xã Thọ Sơn có các làng gồm: Hữu Cựu, Tiên Sơn, Bái Đề, làng Pheo, Bạ Thôn (nay là làng Bứa, Ngô Công và làng Hông Vai (Xuân Thắng), Đồng Ao, Đồng Sang, Nác Nã…

Từ năm 1960, Nhà nước ta có chủ trương điều chỉnh dân số các vùng miền, đưa dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi, số hộ lên cấy cư ở các làng Thọ Sơn tương đối nhiều, trong đó hình thành các làng mới như: Đồng Cốc, một phần Ngô CôngCũng có đơn vị dân cư mới được thành lập gần đây như: Liên Sơn (phát sinh từ Đồng Công), Phú Sơn (khu vực chợ), Tân Sơn, Trung Sơn (khu vực trung tâm xã)…

Thực hiện Quyết định số 177CP ngày 16/12/1964 của Hội đồng Chính phủ điều chỉnh lại địa giới Thọ Xuân, Nông Cống, 13 xã phía nam huyện Thọ Xuân được nhập cùng 20 xã phía bắc của huyện Nông Cống để thành lập huyện Triệu Sơn. Từ tháng 2 - 1965, tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền huyện Triệu Sơn đi vào hoạt động. Từ đây Thọ Sơn trực thuộc huyện Triệu Sơn.

Giai đoạn xây dựng hợp tác xã nông nghiệp toàn xã đã thành lập các đội sản xuất ở các làng (những làng lớn có thể 2 - 3 đội), vai trò của hợp tác xã rất lớn nên đội sản xuất trở thành đơn vị cấp dưới của cả hợp tác xã và UBND xã. Thời kỳ này thường lấy tên đội sản xuất (được đặt theo số thứ tự) trong các văn bản của xã.

Năm 1991, UBND tỉnh Thanh Hóa có Quyết định 787/QĐ-UB về việc thành lập thôn, cùng với việc bầu chức danh thôn trưởng, từ các đội sản xuất được chuyển thành các thôn.

Năm 1993, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có Quyết định 33 về việc xây dựng làng văn hóa, sau đó là Nghị quyết Trung ương 5 về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc thì các làng truyền thống được coi trọng hơn.

Cho đến giữa năm 2018, Thọ Sơn có 16 đơn vị dân cư, vẫn được gọi là làng gồm: Bái Đề, Phú Sơn, làng Pheo, là Bứa, Trung Sơn, Đồng Thành, Đồng Ao, Đồng Chiêm, Hữu Cựu, Đồng Cốc, Nác Nã, làng Tiên, Đồng Sang, Tân Sơn, Ngô Công, Liên Sơn.

Cuối năm 2018, thực hiện Quyết định 3110/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 7 - 8 - 2018 về việc đổi tên; chuyển đổi thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Thọ Sơn tiến hành sáp nhập các làng nhỏ thành 8 thôn gồm:

- Thôn 1 gồm làng Bái Đề và làng Bứa.

- Thôn 2 gồm làng Phú Sơn và làng Beo.

- Thôn 3 gồm làng Tiên và làng Trung Sơn.

- Thôn 4 gồm Làng Tân Sơn và Đông Thành.

- Thôn 5 gồm làng Đồng Ao và làng Đồng Chiêm.

- Thôn 6 gồm làng Ngô Công và làng Liên Sơn.

- Thôn 7 gồm làng Hữu Cựu và làng Nác Nã.

- Thôn 8 gồm làng Đồng Cốc và làng Đồng Sang[5].

Có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư nơi đây đã trải qua nhiều thế kỷ. Trong sách Đồng Khánh Địa chí dư được xuất bản từ thời nhà Nguyễn thì đã thấy xuất hiện tên làng Tiên, làng Hữu Cựu và một số làng của Thọ Sơn thuộc tổng Tam Lộng. Chắc chắn cư dân Thái Mường đã có mặt trên đất Thọ Sơn khá sớm. Theo lịch sử truyền thống của các làng, cũng như các giai thoại, truyền thuyết liên quan đến Lê Lợi thì làng Bái Đề được hình thành sớm nhất cách đây chừng 500 - 600 năm. Tuy nhiên, cũng có đơn vị dân cư hình thành gần đây nhất làng Đông Thành chỉ mới có tên chính thức khi khai trương xây dựng làng văn hóa vào năm 2018. Riêng tên xã Thọ Sơn xã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

 II. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

1.     Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo

Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo là mạch nguồn xuyên suốt bao thế kỷ nay từ khi có con người đến mảnh đất Thọ Sơn khai hoang lập nghiệp. Có thể nói truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Thọ Sơn gắn liền với quá trình mở đất lập làng. Qua khảo cứu tên làng, tên đất, phong tục tập quán, dòng họ… dễ dàng nhận thấy vùng đất Thọ Sơn có 2 luồng di dân chính. Một luồng từ phía tây, chủ yếu là người Mường, người Thái tràn xuống từ rất sớm, chiếm lĩnh khu vực đồi núi thấp và trung du rồi tràn xuống các cánh đồng chân núi như khu vực làng Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa[6]… Luồng thứ hai đến muộn hơn là người Kinh từ các xã, huyện miền xuôi, thậm chí từ các tỉnh ngoài Bắc vào, từ Nghệ An ra trên đường tìm đất lập nghiệp đã tìm đến mảnh đất này.

Có một điểm chung của hai nhóm cư dân này là tinh thần quật cường, quả cảm, dám chấp nhận thử thách, rời làng đi tìm vùng đất mới. Trong quá trình khai phá vùng đất mới là một quá trình dấn thân đầy mạo hiểm. Có người vì chống cường quyền, áp bức, hay bất đắc chí với xã hội đương thời tìm về miền đất rừng núi này thấy chốn bình yên. Có người phận hèn, thân yếu, không có nổi miếng đất cắm dùi, phiêu bạt về đây sinh sống. Có người không cam chịu cảnh nghèo, thích phiêu du, có tầm nhìn xa, trông rộng, quyết ở lại để lập nghiệp, bởi thấy được tiềm năng còn ẩn chứa trên vùng đất “rừng thiêng nước độc” này. Cũng có người đến chơi, mến cảnh, mến người, mà nên dâu, nên rể rồi ở lại thành quê.

Từ một vài hộ ban đầu rồi trở thành cụm dân cư, thành làng bản là bài ca bất tận về truyền thống lao động của bao thế hệ người Thọ Sơn. Với ý chí của người dấn thân đi mở đất, với truyền thống lao động cần cù đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành cuộc “di cư” tìm lập quê mới.

Sống ở vùng đất không thuận lợi về sinh hoạt, sản xuất, đã rèn rủa cho họ một tinh thần lao động cần cù, siêng năng, tần tảo.

Thuở xa xưa, toàn bộ vùng đất Thọ Sơn này còn là rừng núi hoang vu, với rừng thiêng, nước độc, với bao câu truyền rùng rợn về ma rừng, thần núi. Trước Cách mạng Tháng Tám, trên các ngọn núi trong vùng vẫn còn nhiều các loại cây gỗ qúy hàng trăm năm tuổi, xen lẫn vô vàn các loại thực vật của miền nhiệt đới. Các loại thú dữ như hổ, báo, lợn rừng, hay khỉ, vượn... cũng đã từng có mặt trên các đồi núi khu vực này. Toàn bộ mảnh đất các làng Thọ Sơn đang sống hôm nay, nằm trong ngút ngàn màu xanh của cây cối. Trên các gò cao gồm nhiều loài thực vật, nổi lên cao là các cây cổ thụ. Dưới khu đất bằng cây cối rậm rạp, với nhiều loài thú dữ với bao rắn rết đủ loại.

Bằng lòng quả cảm, những cư dân đầu tiên đến đây đã chặt cây làm nhà, vỡ đất để trồng sắn, khoai, gieo lúa nương, đặt bẫy săn thú. Quá trình phát triển của cộng đồng dân cư ở Thọ Sơn luôn gắn liền với rừng và đất. Từ rừng, người ta khai thác sản vật phục vụ cho cuộc sống, từ đất, những nương ngô, nương sắn, vạt ruộng lúa nước đầu tiên ra đời. Cho nên, tìm hiểu truyền thống lao động của người Thọ Sơn không thể tách rời hai yếu tố này. Không phải ngẫu nhiên mà các làng ở đây lại có nghề truyền thống như: đan lát, nghề mộc, sơn tràng và nhiều nghề khác lấy nguyên liệu từ rừng.

Trong quá trình phát triển, lâm sản bị khai thác ngày càng cạn kiệt, những sản vật từ rừng ít dần, đời sống ngày càng khó khăn, thay vào đó là những ruộng lúa nước, nương ngô được hình thành, thì nghề nông là nghề chính của nhân dân nơi đây. Làm nghề nông ở Thọ Sơn trong điều kiện hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên luôn chịu cảnh hạn hán vào mùa khô, ngược lại vào mùa mưa nước từ ba bề núi theo các khe suối đổ về cướp đi bao mồ hôi, công sức thì cực nhọc vô cùng. Hoa màu bị mất, ruộng đất bị rửa trôi, bạc màu, người nông dân lại kiên trì cải tạo đất, chuẩn bị cho một mùa gieo cấy mới, dù vẫn bấp bênh, không ăn chắc.

Trên vùng đất đầy khó khăn ấy, bao thế hệ người Thọ Sơn đã cần mẫn cấy từng giẻ lúa, trồng từng ngọn khoai, hom sắn, đồng thời từng bước chế ngự thiên nhiên qua việc khơi mương, đắp đê chắn lũ. Từ vùng rừng cây cối rậm rạp, biến thành các xứ đồng với những mùa vàng bội thu hôm nay, người Thọ Sơn đã đổ bao công sức và trí tuệ. Mỗi tên đất, tên đồng như: Hấp Khang, Cồn De, Nổ Lạch (làng Pheo), Thọ Ngao, Thọ Voi, Cồn Trọng, Cồn Công, Đám Hát (Bái Đề), Hấp Cá, Cồn Tế (làng Bứa), Hón Cùn, Mã Đề (Nác Nã)… không những chỉ là địa danh cho dễ nhớ, dễ gọi mà còn là dấu ấn của truyền thống lao động của cư dân ở đây.

Từ những khe suối đưa lũ ống, lũ quét về mùa mưa lũ, với đôi tay cầm cuốc, cầm mai, đôi vai chai sạn gánh từng gánh đất, thậm chí đội cả thúng đất trên đầu dòng rã cả năm trời để đắp đập tạo thành hồ nước mênh mông rộng tới hàng chục nghìn mét vuông. Giờ đây những hồ đập Dốc Đất, Ngọc Mép, Ngô Công luôn ăm ắp nước mỗi mùa mưa về để tưới cho ruộng đồng khi mùa khô đến. Đó không chỉ là những công trình thủy lợi mà còn là bài ca về truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của người Thọ Sơn.

Bởi thế, mặc dù điều kiện tự nhiên luôn bất lợi cho sản xuất nông nghiệp, người Thọ Sơn lại biết biến những bất lợi trên thành nguồn sống khác. Đối với người dân Thọ Sơn trước đây, ngoài nông nghiệp, làng nào cũng biết khai thác lợi thế từ rừng. Việc đi rừng lấy măng, kiếm củi, đốt than, lấy các sản vật từ rừng để phục vụ đời sống, hay bán kiếm tiền mua gạo đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ người dân. Có thể nói, trước đây sơn tràng cũng là một nghề mang lại thu nhập đáng kể cho một số gia đình.

Ngoài các nghề trên, người dân các làng ở Thọ Sơn đều có các nghề phụ như: trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, đan lát, làm mộc... Tuy nhiên, các nghề trên chiếm tỷ lệ lao động không lớn, chủ yếu phục vụ trong gia đình, giá trị hàng hóa không cao.

2. Truyền thống văn hóa

Từ xa xưa, nhân dân Thọ Sơn đã tạo dựng cho mình một truyền thống văn hóa đặc sắc, vừa mang đậm văn hóa lúa nước của người kinh, vừa có sự giao thoa văn hóa Thái Mường với những lễ tục, lễ hội vô cùng phong phú và đa dạng. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong quá trình mở đất, dựng làng, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú giữ, giặc dã đủ loại để tồn tại và phát triển.

Dễ thấy, trước đây các làng truyền thống của người Kinh ở Thọ Sơn đều có đình chùa, đền miếu phản ánh đời sống tâm linh của dân làng trong nền văn minh lúa nước. Tìm hiểu việc thờ thành hoàng ở các làng của người kinh như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa…đều thấy nhân dân tôn thờ những nhân thần như: Cao Sơn là người khởi binh chống lại nhà Đường (Trung Quốc), bà Đề là người phụ trách trang trại sản xuất lương thực của nghĩa quân Lê Lợi, hay những người có công khai canh mở đất, lập làng, hoặc những thiên thần như thần núi với ước nguyện cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang, vật thịnh.

  Ở các làng có cộng đồng người Mường, người Thái thường không xây dựng đình làng, nhưng cũng có ngôi nhà sàn truyền thống là nơi sinh hoạt của cộng đồng. Nhà lang của người Mường được coi là đại diện cho người nhà trời nên kiến trúc vừa mang đậm nét truyền thống, vừa quy mô, bề thế hơn dân thường. Kiến trúc nhà của người Mường không dùng kỹ thuật ghép mộng mà gác lên nhay được kết nối bằng thang chặn. Cột, xà luôn tròn, đẽo gọt bằng rìu, không bào nhẵn hay đánh bóng.

Người Mường không thờ thành hoàng làng như người Kinh. Chỉ có nhà lang mới thờ một chiếc ngai tượng trưng cho quyền lực nhà trời. Cũng chỉ nhà lang mới được dùng các đồ dùng bằng đồng và giữ dàn cồng chiêng của người Mường. Cồng chiêng là vật linh thiêng dùng để kết nối con người với thần linh. Vậy nên chỉ được vang lên trong lễ hội và khi nhà lang về trời. Sau này thì có biến tấu đi nhiều, cồng chiêng còn được sử dụng trong cưới xin của dân thường. Trong sử thi Đẻ đất, đẻ nước có một đoạn kể vua Dịt Dàng sai thợ đúc trống đồng để dùng và chia cho các nhà lang.

Ngoài các công trình lớn như đình, chùa, nhà lang, nhiều làng ở Thọ Sơn còn có đền, miếu. Các công trình kiến trúc của người xưa trên đất Thọ Sơn do sự tàn phá của thời gian, do suy nghĩ ấu trĩ của con người nên không còn nữa, chỉ còn lại trong tâm thức của những người cao tuổi. Xin được ghi lại để thế hệ mai sau hiểu thêm những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của làng quê.

Về tín ngưỡng: nhìn chung đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân Thọ Sơn khá phong phú, đa dạng. Ngoài những nét chung như: thờ thổ công, thờ gia tiên, người Kinh có tục thờ thần ở các đền miếu, thờ thành hoàng ở đình, các thiên thần, hoặc nhân thần tại các đền. Chưa tìm thấy làng nào có chùa thờ Phật, cũng như văn chỉ, tuy nhiên ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, đạo giáo trong đời sống cộng đồng còn khá rõ.

Người Mường và người Thái ở xen cư với người Kinh (mà người Kinh ngày càng chiếm số đông), nên tín ngưỡng, phong tục tập quán có sự pha trộn, giao thoa nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung tín ngưỡng của người Mường ở Thọ Sơn theo đa thần giáo, tin vào thuyết vạn vật hữu linh. Người Thái quan niệm thế giới có 3 tầng: trời, đất, nước và mọi vật đều có linh hồn. Tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc, Ấn độ ít có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh người Mường và người Thái.

Lễ tục, lễ hội ở Thọ Sơn tương đối phong phú do mỗi dân tộc có những tục lệ khác nhau. Đối với người Kinh chủ yếu do từ nơi khác nhập cư về nên có những nét chung với văn hóa đồng bằng Bắc Trung bộ. Thọ Sơn không có lễ hội quy mô lớn, nhưng phần lớn các làng truyền thống đều có hội làng, chủ yếu liên quan đến tục thờ cúng ở đình, chùa. Sau phần tế lễ là đến phần hội với các trò chơi dân gian như: chọi gà, chơi đu, đấu cờ, thi nấu cơm...

Đối với cộng đồng người kinh, thường thì vào rằm tháng giêng các làng tổ chức tế lễ. Hôm ấy làng mổ lợn, dựng cờ phướn để cúng chúng sinh. Những năm trời làm khô hạn thì làm lễ cầu mưa, mong cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Ngoài ra còn có nhiều tục lệ liên quan đến nông nghiệp như: lễ thượng điền, lễ hạ điền, lễ ăn cơm mới, tết giết sâu bọ (mùng 5 tháng 5), cúng bánh chưng, bánh dầy ngày tết...

Đối với cộng đồng người Mường, người Thái thì ngoài một số tục lệ chung với người Kinh, thì mỗi dân tộc có cả một kho tàng lễ tục, lễ hội đồ sộ. Chỉ riêng việc làm vía hết năm, hay cưới xin, tang lễ…đã chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian.

 Nói đến cộng đồng người Thái, không thể không nói đến lễ hội Khua Luống. Khua luống là loại hình diễn xướng dân gian thường từ 8 đến 10 người tham gia, trong đó có một người làm cái và một người có nhiệm vụ giữ nhịp. Công cụ cho một cuộc diễn gồm loóng giã gạo và “co xạc” (tức cái chày giã gạo). Trong một hội diễn, người khua luống thường đứng chia đều hai bên thành loóng, cầm những chiếc chày vừa giã vừa khua vào thành loóng, tạo thành âm thanh rộn rã.Khua luống ở người Thái thường được tổ chức trong những dịp vui như: lễ rước dâu trong đám cưới, hay khi tết đến, xuân về. Trong đám rước dâu của người Thái, tiếng chiêng và tiếng khua luống là tín hiệu của niềm vui, cũng là lời báo hiệu đối với người đi đường và làng bản sắp có đám rước dâu đi qua. Khi đoàn rước dâu về gần đến nhà trai, người ta sẽ khua luống để chào đón cô dâu và họ nhà gái bằng những nhịp điệu rộn ràng gấp gáp. Cùng với đó là tiếng chiêng đón chờ. Không gian biểu diễn của khua luống thường gắn với những tục lệ rước dâu, cưới xin của người Thái và nó diễn ra ở dưới mái nhà sàn. Trong dịp tết, vào đêm ba mươi, trai gái khua luống gọi là sinh hoạt văn nghệ đón năm mới. Trai gái bản thường tụ tập tại những nhà có đông con gái con trai và có cái loóng đẹp nhất, kêu vang xa nhất, cùng nhau khua luống. Tuy cộng đồng Người Thái ở Thọ Sơn không lớn lắm nhưng Cách mạng tháng Tám những đám cưới, hoặc này tết trước vẫn duy trì khua luống. Vào mùa Xuân, người Thái ở Thọ Sơn tham gia lễ hội lễ hội tại hang Lãm (xã Tân Thành, huyện Thường Xuân). Đây là dịp để trai gái gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Ngoài cửa hang tổ chức ném còn, khua luống…

Tương tự như cộng đồng người Thái, cộng đồng người Mường có hát xường, lễ hội Pôồn Pông. Lễ hội Pôồn Pôông cũng là dịp để nam thanh, nữ tú trong mường (làng) vui vầy. Hình thức nghệ thuật diễn xướng tinh tế này đã tạo nên nét riêng biệt của cộng đồng người Mường, cuốn hút người xem hòa mình vào các trò chơi, trò diễn dân gian. Lễ hội bôồn pôông của người Mường Thọ Sơn được tổ chức hằng năm vào các ngày Rằm tháng Giêng, hay mùa gặt gọi là lễ hội mùa mừng cơm mới. Trong văn hóa người Mường, cây bông (cây hoa) là vật trung tâm của lễ hội cũng như là biểu tượng của vũ trụ bao la. Những lời hát trong pôồn pôông vẫn lời xướng tự do là chủ yếu - cách đối đáp tay đôi giữa thần thánh với con người (Ậu Máy - chủ lễ hội, đại diện cho thần linh và trai gái), qua đó là tình cảm trai gái, vừa thiêng liêng thánh thần vừa vui vẻ, dân dã...

Văn học dân gian ở Thọ Sơn tương đối phong phú. Từ xưa, nhân dân vẫn truyền tụng những câu ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất, răn dạy đạo lí, lối sống cho con cái. Hiện các câu nói về sinh hoạt, văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Thọ Sơn còn khá phong phú. Các truyện kể dân gian kể nhiều về các giai thoại về Bà Triệu, Lê Lợi, phong trào Cần Vương, hay những chuyện cổ tích có pha chút thần thoại, bí ẩn về rừng, núi, những câu chuyện liên quan đến các địa danh cụ thể ở địa phương, như: trại Bà Đề, đồng Thọ Voi, đồng Đám Hát, tên làng Bái Đề...

Đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa dân tộc, trước đây từng lưu truyền khá phổ biến ở Thọ Sơn là sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của cộng đồng người Mường. Đối với cộng đồng người Thái cũng như cộng đồng người Mường ông mo (tạm gọi là thầy cúng) có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần. Tác phẩm “Đẻ đất, đẻ nước” được các ông mo đọc trong tang lễ (có thể xem như bài cúng dài) của người Mường. Nhưng vượt qua lễ tục tang lễ, “Đẻ đất, đẻ nước” thực sự là một sử thi đồ sộ có nhiều bản, bản dài nhất tới 8.000 câu, được coi là một tác phẩm dân gian đặc sắc của Việt Nam và thế giới. Hiện tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông.

Với 38 chương (rằng), Đẻ đất đẻ nước kể lại lịch sử người Mường từ khi “dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời”, sau đó trời đất, con người và muôn loài sinh ra. Con người đầu tiên (Đá Cần) tạo ra vật chất, của cải. Tác phẩm cung cấp cho ta một bức tranh dân tộc từ khi trời đất, con người sinh ra. Rồi đẻ ra đất, ra nước, tạo ra muôn vật, từ đó sinh ra 1919 mường, sinh ra Dịt Dàng (vua), sinh ra nhà lang, tiếp đó học cách làm ra lửa, làm ra rượu, làm nhà lang (xây dựng triều đình), đúc trống đồng, chống giặc ngoại bang… Tất cả sự việc kể trên đều gắn với thần linh, nhà trời được kể bằng giọng đọc truyền cảm, đầy “linh thiêng” của thầy mo nên tác phẩm luôn hấp dẫn người nghe[7].

Trước đây ở Thọ Sơn vẫn có các ông mo thực hiện tang lễ, cũng như cưới xin, làm vía của cộng đồng người Mường, người Thái. Sau này không còn ai nữa, khi cúng bái tiễn đưa người chết, cũng như lễ tết, làm vía, muốn làm đúng thủ tục phải lên Xuân Thắng và các xã vùng trên mời thầy mo về. Tuy vậy, vì mo tiêu (Đẻ đất, đẻ nước) phải mo 12 đêm mới hết, nên chỉ nhà lang mới thực hiện đầy đủ, còn các gia đình bình thường chỉ đọc mo vải ngắn hơn.

Khái quát vài nét như vậy để thấy đời sống tinh thần, văn hóa dân gia, lễ tục, lễ hội dân gian ở Thọ Sơn vô cùng đặc sắc, phong phú. Ngày nay, thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII), nhân dân Thọ Sơn đang gạn đục, khơi trong, khôi phục những giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Truyền thống yêu quê hương, đất nước

Tình yêu quê hương, đất nước là truyền thống lâu đời của làng quê Thọ Sơn. Từ xưa, mỗi khi ông mo “mo” Đẻ đất đẻ nước là dịp giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần bất khuất cho các thế hệ con cháu. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “vua Dịt Dàng” trong Đẻ đất đẻ nước chính là hiện thân của vua Hùng Vương[8]. Tìm hiểu lịch sử các làng cho thấy nhiều làng thờ những người có công với nước, như thần Cao Sơn, bà Đề, hay những người có công khai đất, lập làng làm thành hoàng. Qua việc tôn thờ các vị nhân thần này để tỏ lòng biết ơn, đồng thời cũng là để giáo dục, nhắc nhở thế hệ đang sống và muôn đời sau phát huy truyền thống yêu nước của quê hương.

Trên địa bàn Thọ Sơn ngày nay còn lưu lại dấu ấn chứng tỏ nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy từng hoạt động. Tương truyền trong một lần hành quân qua đây, voi của Lê Lợi bị sa lầy ở khu đồng làng Bái Đề, các cụ bô lão trong làng đã hiến kế rồi huy động sức dân cứu được, chính vì vậy làng đặt tên cánh đồng là Thọ Voi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, với kế sách đánh lâu dài làm địch suy yếu rồi mới phản công, Lê Lợi đã cử người về nhiều vùng ở Thọ Xuân, Nông Cống xây dựng các trang trại sản xuất lúa gạo, nuôi bò, lợn để cung cấp cho nghĩa quân. Trên địa bàn xã Thọ Sơn và các xã trong khu vực đã được khai phá để xây dựng một trang trại lớn do một người phụ nữ phụ trách. Nhớ công ơn bà, khi thắng lợi Lê Lợi đã sắc phong cho dân làng lập đền quanh năm hương khói thờ bà. Nhân dân trong vùng gọi là đền bà Đề[9]. Hiện nay chưa tìm được tên tuổi những người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng chắc chắn, đất và người Thọ Sơn đã có những đóng công sức nhỏ bé trong chiến công chung của dân tộc quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập, tự chủ cho Tổ quốc.

Cuối thế kỷ XIX, trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, năm 1885, vua Hàm Nghi đã ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc Pháp. Thanh Hóa là quê hương của nhà Nguyễn nên phong trào Cần Vương diễn ra mạnh mẽ. Trên địa bàn huyện Triệu Sơn ngày nay có hàng loạt căn cứ khởi nghĩa ra đời ở các xã. Trên địa bàn xã Thọ Cường, Thọ Sơn ngày nay đã có một căn cứ của nghĩa quân Cần vương chống Pháp. Thọ Sơn là vùng quê có truyền thống yêu nước, nhân dân lại nặng lòng “Trung quân, ái quốc”, nên các văn sĩ và trai tráng trong các làng nô nức hưởng ứng phong trào. Từ các làng Hữu Cựu, làng Tiên, Nác Nã, Đồng Sang… cho đến các làng ít dân đinh nhất đều hưởng ứng hịch cứu nước của nhà vua đứng lên cứu nước, cứu nhà. Dưới sự lãnh đạo của các cụ cao tuổi, trai tráng trong làng sắm sửa vũ khí như: dáo, mác, kiếm, sung kíp, gậy gộc… ngày đêm luyện tập sẵn sàng chiến đấu. Có những người rời làng tham gia nghĩa quân ở căn cứ Vân Đồn (thuộc vùng Tứ Hợp), còn phần lớn luyện tập tại địa phương tham gia những trận đánh lẻ tiêu hao sinh lực địch. 

Sau khi tham gia đánh thành Thanh Hóa thất bại,  nghĩa quân Cần Vương rút xuống căn cứ Ba Đình (Nga Sơn) tiếp tục kháng chiến. Các nghĩa sĩ vùng miền núi theo Hà Văn Mao tiếp tục kháng chiến.

Sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, giặc Pháp đã cho quân về nhiều làng bắt bớ, chém đầu những người tham gia nghĩa quân, đốt nhà cửa, đình chùa, cướp của. Người bị chết, nhà cửa bị cháy, nhưng ngọn lửa hung tàn của bọn giặc Pháp không thiêu cháy được tinh thần yêu nước của nhân dân Thọ Sơn, chỉ chờ có dịp là bùng lên thành ngọn lửa đốt sạch xiềng gông, áp bức.

Chính vì vậy, khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân Thọ Sơn đã tích cực tham gia các tổ chức quần chúng cách mạng như: hội biến tướng, hội tương tế ái hữu, đòi quyền dân sinh, dân chủ và vùng lên lật đổ chế độ thực dân phong kiến trong Cách mạng Tháng Tám.

Cách mạng thành công, nhân dân Thọ Sơn lại cùng với cả nước tiến hành cuộc trường kì kháng chiến, đánh Pháp, đuổi Mỹ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, cùng cả nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống bọn bành trướng Trung Quốc bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tinh thần yêu nước ấy của lớp lớp cha ông đang được các thế hệ người Thọ Sơn nâng niu, giữ gìn và phát huy ở thời đại mới, sẵn sàng cùng quân và dân cả nước đập tan mộng xâm lược của kẻ thù nếu chúng dám xâm phạm vùng trời, vùng biển, hải đảo và từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.

Với một vị trí đặc biệt, nằm giáp gianh giữa đại ngàn phía Tây của Thanh Hóa với vùng đồng bằng, Thọ Sơn thuộc vùng núi thấp và bán sơn địa của huyện Triệu Sơn. Trước kia, đây là vùng đất không mấy thuận tiện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Trải qua nhiều thế kỷ, bao thế hệ người Thọ Sơn đã cần cù lao động, biến vùng rừng núi hoang vu thành nương ngô, bãi sắn, những cánh đồng trồng lúa. Trong quá trình lao động, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, nhân dân nơi đây đã tạo dựng nên nhiều giá trị vật chất và tinh thần phong phú, đó là nền tảng, là sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vượt mọi khó khăn, hoàn thành sự nghiệp cách mạng trên quê hương yêu dấ

Chương II

THAM GIA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁPXÂM LƯỢC (1930 - 1954)

I.                      PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN GÓP PHẦN GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1930 - 1945)

1.                       Tình hình kinh tế - xã hội Thọ Sơn dưới ách thống trị của thực dân Pháp

Năm 1858, chiến hạm của thực dân Pháp từ ngoài biển nổ súng đánh vào Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn lúc đầu có một số hoạt động chống Pháp, nhưng sau dần thỏa hiệp, đầu hàng. Trước tình hình trên, phái chủ chiến trong triều đình, đứng đầu là Tôn Thất thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Quảng Trị, tại đây nhà vua đã ra chiếu Cần Vương chống Pháp. Trên địa bàn cả nước hàng loạt cuộc khởi nghĩa nổ ra chiêu tập nghĩa binh chống Pháp. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, các cuộc khởi nghĩa trên lần lượt thất bại. Sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, thực dân Pháp bắt tay vào cai trị nước ta.

  Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng chia nước ta thành 3 kỳ có một chế độ khác nhau. Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ, nằm trong chế độ bảo hộ, về danh nghĩa, triều đình nhà Nguyễn có quyền cắt cử quan lại ở Trung Kỳ, nhưng trên thực tế quyền cai trị đều vào tay người Pháp.

  Ở phủ Thọ Xuân, đứng đầu là tri phủ, một số nha giúp việc là đề lại, lục sự, thừa phái, gọi theo thứ tự: thầy nhất, thầy nhì, thầy ba. Tri phủ kiêm nhiệm việc xét xử các vụ án. Về an ninh, quân sự, có một lệ mục, gọi là đội lệ chỉ huy một tiểu đội lính tuần sai, có vũ khí, có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ và một tiểu đội lính lệ do việc phục dịch và để sai phái công việc.

  Ở tổng Tam Lộng, đứng đầu có chánh tổng (còn gọi là cai tổng), sau chánh tổng là phó tổng. Từ năm 1930, có thêm một đoàn trưởng phụ trách 10 đội phu, chuyên lo an ninh, chính trị, chủ yếu là để đàn áp các phong trào cách mạng. Đến năm 1940, có thêm một phó tổng phụ trách nông nghiệp.

Dưới làng, xã có hội đồng hương lý, gồm: lý trưởng và ngũ hương. Đối các làng người Kinh có các chức danh: lý trưởng: phụ trách chung; hương bạ: giữ sổ sách, trông coi việc sinh tử, giá thú; hương dịch: trông coi việc đồng điền; hương kiểm: lo việc an ninh, trật tự; hương mục: lo việc đê điều, đường sá, huy động lao động công ích, phu chen tạp dịch; hương bản: giữ quỹ công (tiền, lúa). Một số làng có rừng có thêm hương lâm, trông coi việc bảo vệ, khai thác rừng. Ngoài ra còn có trương tuần, trông coi việc tuần tra canh gác. Ở các làng người Thái, người Mường, đứng đầu là thổ ty (quan lang), ngoài ra còn có những người giúp quan lang quản lý bản, mường như: cai giáp, quyền mường…

  Người Pháp lợi dụng bộ máy cai trị ở các làng bản để phục vụ cho chính sách bóc lột của chúng. Toàn quyền PaulDoumer đã tuyên bố: “Cơ cấu của làng xã An Nam cần được duy trì để phục vụ cho chính sách cai trị của chúng ta được dễ dàng. Chính phủ có thể muốn và được thỏa mãn bất cứ điều gì của nhân dân, bằng cách thỏa thuận với đại biểu các làng xã”[10]. Cho nên ngay từ đầu, chúng đã tranh thủ cộng tác với gia cấp phong kiến, địa chủ cường hào, dụ dỗ họ như: thăng quan, tiến chức, hưởng các bổng lộc. Đối với hàng ngũ chánh, phó tổng, lý trưởng, chúng ban phẩm hàm, kim tiền, kim triều, mề đay (huân chương). Đối với dân, chúng đối xử phân biệt từng đẳng cấp cả về chính trị và kinh tế. Tráng đinh từ 18 - 60 tuổi phải nạp sưu (thuế thân), mỗi năm 1,5 đồng. Con quan (ấm sinh), lính mộ, lính thợ chỉ phải đóng 0,4 đồng. Chức sắc (người được hưởng từ cửu phẩm trở lên), chánh, phó tổng, lý trưởng, lính khố đỏ, khố xanh, thuộc loại miễn sai, không phải nạp sưu và miễn mọi sai phu, tạp dịch. Chính vì vậy mà nhiều nơi tranh chấp chức quyền, ngôi thứ trong làng diễn ra rất gay gắt. Mỗi khi bầu chánh, phó, tổng hương lý là một cuộc tranh giành vây bè, kết cánh kiện cáo nhau…

Trên lý thuyết, đội ngũ lý hương các làng do dân bầu ra, nhưng trên thực tế, thực dân Pháp tìm mọi cách đưa những người có lợi cho chính sách cai trị của chúng vào. Tuy vậy, là vùng quê nhân dân sống nặng tình làng, nghĩa xóm, nên khi có phong trào cách mạng, số đông hương lý, thổ ty đã tích cực ủng hộ. Điển hình cho phong trào nay, có thể đến ông Đoàn Hợi, ngườ dân tộc Thái ở làng Nác Nã, ông Hương Cua ở làng Bái Đề….

  Về kinh tế:

  Từ năm 1895, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa một cách triệt để. Điển hình là việc cấu kết với địa chủ, phong kiến chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để lập các trang, ấp, đồn điền. Trên địa bàn huyện Triệu Sơn ngày nay đã có hàng loạt trang ấp, đồn điền lớn nhỏ như: ấp Di Linh, ấp Di Hoàng, ấp Hàn Thanh, ấp Hữu Ngọc, Trại Quan… Dựa thế quan thầy Pháp, giai cấp địa chủ ở địa phương tìm cách cướp ruộng của dân, nông dân bị bần cùng hóa, trở thành người làm thuê cho các ông chủ đất. Theo thống kê, trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất các làng của Thọ Sơn như sau: địa chủ, nhà giàu chiếm 48% chủ yếu là nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, công điền, công thổ chiếm 20%, thành phần dân nghèo chiếm số đông nhưng chỉ có 32% ruộng đất, chủ yếu là đất xấu, khó canh tác.

  Phần đông nông dân không có ruộng, phải đi ở mùa, hoặc làm thuê, cuốc mướn quanh năm, hoặc vào rừng hái măng, kiếm củi, đốt than...

  Chính sách bần cùng hóa về kinh tế đã đè nặng lên đời sống người dân Thọ Sơn. Lại thêm thuế khóa nặng nề, khiến đời sống người dân càng thêm túng quẫn. Thuế trực thu bao gồm thuế thân và thuế điền thổ. Trong đó, thuế đánh vào đầu người là vô nhân đạo nhất. Nam giới từ 18 tuổi trở lên đến 60 tuổi đều phải đóng thuế thân, gọi là sưu. Sưu được chia làm 3 loại: cùng đinh, tráng đinh và công chức. Cùng đinh đóng mức 1 đồng 5 hào (tương đương 1 tạ rưỡi thóc). Về sau, để bù thiếu hụt ngân khố bị thâm hụt trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, thực dân Pháp tăng cường bóc lột người dân bản xứ, thuế thân tăng đến 2 đồng 5 hào. Thuế điền hạng nhất mỗi mẫu 1,5 đồng, khoảng 1,5 tạ thóc, hạng nhì mỗi mẫu 1,2 đồng, hạng 3 mỗi mẫu 0,8 đồng. Năm 1924 nhân “Tứ tuần đại khánh” (mừng thọ vua Khải Định 40 tuổi), thuế điền nâng lên 30%. Sau đó không giảm đi mà còn tăng lên 8% để chi phí thủy lợi và giao thông. Đúng như một học giải Pháp viết trong cuốn “Xứ An Nam”: “Người An Nam cứ trả tiền và trên chiếc lưng cao su của họ, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”[11].

Lợi dụng dân trí thấp, khi có bài chỉ của tòa công sứ, hương lý các làng tăng thêm các khoản thu. Vì thế, thuế thân có khi lên đến 3,2 đồng. Lợi dụng thuế mỗi loại lại chênh lệch lớn, nên số thuế điền cũng bị tăng lên khá nhiều. Những nhà làm ruộng xâm canh (ruộng của làng khác) có khi bị thu lên gấp rưỡi, gấp đôi. Người dân đóng đủ thuế thì được nhận thẻ thuế thân và biên lai thuế ruộng để đi lại và canh tác.

  Về văn hóa – xã hội:

  Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để trị. Đa số người dân Thọ Sơn không được học hành. Trước kia, một số gia đình khá giả cho con cái học chữ, một số người cũng lều chõng đi thi, nhưng số người đỗ đạt không nhiều. Sau kỳ thi Hương năm 1918, nhà Nguyễn bãi bỏ chế độ thi cử Hán học, bởi vậy, chỉ có số ít gia đình mời thầy đồ về dạy để giữ nếp nhà, hay phục vụ cho việc tế lễ ở đình chùa… Để phục vụ cho bộ máy cai trị và khai thác thuộc địa, thực dân Pháp có mở một trường sơ học Pháp - Việt tại tổng Tam Lộng gồm có 2 lớp (đồng ấu và dự bị). Những người muốn học lên lớp trên phải về trung tâm phủ Thọ Xuân. Mà cũng chỉ một số ít con nhà khá giả mới được đi học các trường này. Đa số nhân dân Thọ Sơn đều mù chữ.

  Chính sách ngu dân của thực dân Pháp, kìm hãm người dân trong vòng đói nghèo lạc hậu. Nhân dân ăn uống phải dùng nước giếng đất, tắm giặt trong ao tù. Khi ốm đau, nhân dân phải mời thầy thuốc bắc đến nhà kê đơn, cắt thuốc, người nghèo thì tự hái thuốc nam chữa bệnh. Chính vì vậy, dịch bệnh liên tục xảy ra, có năm dịch tả chết người hàng loạt. Cảnh “hữu sinh vô dưỡng” phổ biến nên tỷ lệ tăng dân số rất thấp.

  Đời sống kinh tế khó khăn, hủ tục lạc hậu với những ma chay, cưới xin, đình đám tốn kém, tệ nạn cờ bạc phát triển, khiến người nông dân ngày càng túng quẫn. “Cửa hàng, đại lý rượu cồn của người Pháp và các tụ điểm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản khắp hang cùng, ngõ hẻm. Trung bình cứ 1.000 làng thì có 1.500 cửa hàng bán rượu cồn và thuốc phiện”[12].

  Từ năm 1939, khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, ngày 5 - 9 - 1940, phát xít Nhật vào chiếm Đông Dương, tình hình kinh tế xã hội thêm khủng hoảng nghiêm trọng. Nhân dân ta phải một cổ hai tròng, các quyền lợi dân chủ, dù chỉ là hình thức và ít ỏi đều bị thủ tiêu. Nhân dân không còn quyền bầu cử. Lý hương trong làng gồm toàn thành phần địa chủ, phú nông cường hào. Tráng đinh bị bắt đi lính, tăng cường cho phòng thủ Đông Dương và sang Pháp làm bia đỡ đạn phục vụ bộ máy chiến tranh của chúng. Phát xít Nhật tàn bạo bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay, bắt phu đi đào sông ở Tĩnh Gia, đi làm sân bay Lai Thành ở thị xã Thanh Hóa.

Đồng bạc Đông Dương mất giá, Nhật, Pháp lại tung tiền ra mua lúa, gạo để dự trữ, phục vụ chiến tranh. Năm 1944 có trận lụt lớn, mùa màng thất bát. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, một trận đói kinh hoàng xảy ra. Đi đến đâu cũng thấy người chết. Trong trận đói năm 1945 Thọ Sơn có 12 người chết. Làng quê xác xơ, chìm trong buồn thảm, tang thương.

2. Tham gia các phong trào cách mạng và khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm 1945

Một sự kiện có nghĩa ý quan trọng là việc ra đời tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (còn gọi là Việt Nam Cách mạng thanh niên) vào năm 1925, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.

Là vùng quê có truyền thống yêu nước, những người con ưu tú của Thọ Xuân đã nhanh chóng nhận ra chân lí thời đại - con đường cách mạng để cứu nước, cứu nhà. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hữu Lập, đồng chí Nguyễn Mậu Sung (Xuân Giang) đã về quê, làng Quần Kênh, tổng Kiên Thạch thành lập tiểu tổ “Hội đọc sách báo cách mạng” đầu tiên của phủ Thọ Xuân. Phong trào lan mạnh sang nhiều địa phương trong phủ, nhiều nơi đã tổ chức được “Hội truyền bá quốc ngữ”. Năm 1928, Tỉnh bộ Thanh niên đã chỉ đạo thành lập Phủ bộ Thanh niên Thọ Xuân. Tiếp thu ánh sáng cách mạng, nhiều phong trào đấu tranh của giới trí thức, học sinh trong phủ đã nổ ra, điển hình là phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu và đòi để tang cụ Phan Chu Trinh.

Sự ra đời của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tạo tiền đề quan trọng để phong trào cách mạng Thọ Xuân phát triển. Từ đây, tư tưởng cách mạng, với ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và đường lối cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được tuyên truyền trong lớp thanh niên ưu tú tạo nên lực lượng có cảm tình cách mạng ở địa phương ngày càng đông.

Ngày 3 - 2 - 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu đặt ra của cách mạng Việt Nam với một đường lối cách mạng vô sản đúng đắn. Các tổ chức cơ sở Đảng trong cả nước nhanh chóng được thành lập, trực tiếp lãnh đạo nhân dân tiến hành phong trào cách mạng, chuyển các cuộc đấu tranh tự phát lên tự giác, tiến tới đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Tại Thọ Xuân, ngày 22 - 7 - 1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Doãn Chấp, Chi bộ Thọ Xuân được thành lập. Trên cơ sở Chi bộ Hàm Hạ - Đông Sơn (thành lập ngày 25 - 6 - 1930), Chi bộ Phúc Lộc - Thiệu Hóa (thành lập ngày 10 - 7 - 1930) và Chi bộ Thọ Xuân, ngày 29 tháng 7 năm 1930, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập. Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh, trong đó có nhân dân Thọ Sơn tiến hành đấu tranh cách mạng sôi nổi trong nhiều địa phương thuộc phủ Thọ Xuân.

Qua tuyên truyền tích cực của các chiến sỹ cộng sản, thông qua hoạt động của các tổ chức quần chúng, nhiều địa phương trong huyện Thọ Xuân đã dấy lên phong trào cách mạng chống sưu cao thuế nặng, phù thu, lạm bổ, chống bọn cường hào sách nhiễu dân, chống mê tín dị đoan, xóa bỏ hủ tục rượu chè đình đám, “xôi cân, gà lượt”...

Tháng 1 năm 1936, tình hình chính trị ở Pháp có nhiều thay đổi có lợi cho phong trào cách mạng trong nước. Mặt trận nhân dân Pháp chống phát xít do Đảng Cộng sản làm nòng cốt lên nắm quyền. Mặt trận đề ra cương lĩnh đòi thả tù chính trị, ban hành quyền tự do, dân chủ, tự do lập nghiệp đoàn ở các nước thuộc địa.

Trước tình hình trên, ngày 15 tháng 3 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được triệu tập tại làng Yên Lộ (xã Thiệu Vũ, Thiệu Hóa) đã kiểm điểm tình hình, đề ra nhiệm vụ quan trọng trong tình hình mới, đồng thời ra tờ báo “Tia Sáng” để tuyên truyền cách mạng. Tỉnh ủy chỉ đạo các địa phương thành lập các hội biến tướng,những nơi có điều kiện thì thành lập Hội tương tế ái hữu hoạt động bán công khai và công khai. Đây là giai đoạn hoạt động của các tổ chức quần chúng hoạt động mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương Thọ Xuân. Thọ Sơn và các làng của tổng Tam Lộng cũng hòa chung với khí thế cách mạng của cả nước.

Giữa năm 1937 đồng chí Trịnh Khắc Sản, là một đảng viên từ làng Long Linh Ngoại đến làng Quần Tín (Thọ Cường) sinh sống([13]). Đồng chí được tổ chức phân công mở lớp học chữ quốc ngữ và tuyên truyền giác ngộ cách mạng ở khu vực tổng Tam Lộng. Thông qua các lớp học chữ quốc ngữ, đồng chí Trịnh Khắc Sản đã tập hợp thanh niên tiến bộ trong tổng Tam lộng để tuyên truyền đường lối cách mạng, tài liệu chủ yếu là các bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những bài viết trên các báo Tia Sáng, báo Nhành Lúa do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh phát hành. Trong đó có bài thơ do đồng chí Nguyễn Doãn Chấp, Bí thư Tỉnh ủy sáng tác:

Này anh chị em ơi!

Phải chăng chế độ của riêng

Mình làm khó nhọc, bạc tiền người ăn

Cái thân đã khổ muôn phần

Lại còn sưu thuế vua quan thêm phiền

Cuộc đời điên đảo, đảo điên

Lẽ nào chịu khổ nằm yên trong vùng

Đứng lên phất ngọn cờ hồng

Con đường cách mạng công nông đi đầu

Tiến lên mau, tiến lên mau

Phá tan tư sản, đập đầu vua quan

Thành lập xô viết liên bang…

 Qua các sách báo công khai, nhân dân Thọ Sơn nói riêng, tổng Tam Lộng nói chung hiểu thêm về những bất công của chế độ cũ, yêu cầu cấp thiết phải tổ chức các hội quần chúng tạo thành sức mạnh đoàn kết để đấu tranh chống lại cường quyền, áp bức.

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản, phong trào thành lập các hội biến tướng công khai ở Thọ Sơn, cũng như tổng Tam Lộng ngày càng phát triển. Hầu hết các làng đều thành lập được tổ chức quần chúng như: Hội lợp nhà, Hội đánh tranh, Hội bạn điền, Hội cấy, Hội cày… Trên danh nghĩa là thành lập các hội để giúp nhau trong cuộc sống, nhưng đây là chủ trương của Đảng tập hợp quần chúng sinh hoạt tập thể để chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn: đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Hội tương tế ái hữu các làng đã góp thóc, tiền tạo nguồn quỹ của hội để giúp đỡ các hội viên phát triển kinh tế, như: mua lợn giống, hoặc những khi gia đình có việc lớn như: làm nhà, cưới vợ cho con... Hội tương tế ái hữu làng Quần Tín đã vận động nhân dân đấu tranh đòi bỏ các hủ tục lạc hậu, lệ đóng góp trong việc làng, đấu tranh chống “Dự án thuế thân”, “Dự án thuế điền thổ”…

Giữa năm 1937, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản, hội biến tướng của các làng ở Thọ Sơn đã vận động cử tri đi tham gia bỏ phiếu cho ứng cử viên của Mặt trận dân chủ trong cuộc bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ.  Khu vực Thọ Xuân, những nhân sĩ tiến bộ do Mặt trận giới thiệu đều trúng cử.

Đây là giai đoạn Hội tương tế ái hữu ở tổng Tam Lộng, cũng như huyện Thọ Xuân hoạt động rất sôi nổi, liên tiếp các cuộc đấu tranh đòi công điền, công thổ, cải lương hương tục, giảm bỏ tệ xôi cân, gà lượt… do Hội tương tế ái hữu các làng lãnh đạo thắng lợi đã cổ vũ nhân dân Thọ Sơn rất nhiều.

Tháng 9 năm 1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, nước Pháp lao vào vòng chiến, chính phủ mới ở Pháp thi hành chính sách phản động đối với nước Pháp và các nước thuộc địa. Phong trào cách mạng của Thọ Xuân nói riêng, Thanh Hóa nói chung bị tổn thất nặng, nhiều đồng chí cán bộ nòng cốt bị bắt bớ, tù đày.

Năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược các nước Đông Dương, thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng, từ đây, nhân dân Thọ Sơn sống trong 2 tầng áp bức, bóc lột. Tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ư­­ơng Đảng lần thứ 8 họp tại Pắc Pó do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã chủ tr­­ương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi n­ước Đông Dư­ơng, xác định đường lối cách mạng nư­­ớc ta trong giai đoạn này là “đánh Pháp, đuổi Nhật, Đông Dư­­ơng hoàn toàn độc lập và quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh), thay cho Mặt trận thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật.

Cuối năm 1942, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa liên lạc được với Trung ương Đảng và nhận được Nghị quyết Trung ương 8 và Điều lệ của Mặt trận Việt Minh. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, đại diện Tỉnh ủy về Thọ Xuân tổ chức hội nghị tại chùa Yên Thọ (Xuân Minh) truyền đạt Nghị quyết Trung ương 8 và thành lập Mặt trận Việt Minh phủ Thọ Xuân.

Giữa năm 1944, tình hình thế giới và trong nư­­ớc có những chuyển biến mau lẹ có lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 7 - 5 - 1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Tháng 10 - 1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ: “phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt ... Cơ hội cho 1 dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”[14]Trên địa bàn Thọ Xuân, phong trào cách mạng ngày càng phát triển, tin tức Việt Minh rải truyền đơn, tổ chức diễn thuyết ở các chợ ngày càng nhiều, đã cổ vũ nhân dân Thọ Sơn hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, nhiều người là chức sắc trong làng cũng tích cực tham gia ủng hộ cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh tổng Tam Lộng, quần chúng cách mạng ở các làng Thọ Sơn đã tích cực chuẩn bị vũ khí, như: súng kíp, giáo, mác... tất cả chuẩn bị cho một sự kiện lớn lao sẽ xảy ra trên quê hương.

Sang năm 1945, nạn đói diễn ra trầm trọng, riêng các làng của Thọ Sơn ngày nay đã có 12 người chết đói,thực hiện Chỉ thị “đòi ăn” của Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa, hàng ngàn quần chúng trong huyện đã h­ưởng ứng với nhiều hình thức sôi nổi. Nhiều nơi nhân dân đã đứng lên phá kho thóc của Nhật, của nhà giàu lấy thóc cứu đói cho dân. Trong các làng ở Thọ Sơn, tổng Tam Lộng, nhân dân đứng lên đấu tranh không bán thóc cho Nhật, không nhổ lúa trồng đay, không đi phu làm sân bay Lai Thành, đào kênh Sắt… Ở đâu người ta cũng nói chuyện Việt Minh rải truyền đơn kêu gọi nhân dân đứng lên chống Nhật, Pháp. Một số thanh niên tiến bộ ở Thọ Sơn đã đứng lên kêu gọi nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, nh­ường cơm xẻ áo, giúp đỡ nhau lúc khó khăn.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương, trước tình hình ấy Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” kêu gọi toàn dân chuẩn bị lực lượng tổng khởi nghĩa. Giữa năm 1945, ảnh hư­ởng của phong trào Việt Minh ngày càng rộng, phong trào xây dựng lực lượng vũ trang ở tổng Tam Lộng nói chung, các làng Thọ Sơn nói riêng phát triển mạnh. Một số thanh niên ở các làng ban ngày đi làm đồng, ban đêm tổ chức luyện tập, trên danh nghĩa là tập võ để chống cướp, nhưng thực tế đây là sự chuẩn bị lực lượng để chuẩn bị cư­ớp chính quyền. Các buổi huấn luyện thường được tổ chức vào ban đêm, trên các cồn bãi ở ngoài đồng, tạo nên khí thế cách mạng mới.

Từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp để đánh giá tình hình và nêu ra những chủ trư­ơng của cách mạng trong thời kỳ mới. Hội nghị nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp - Nhật” và phát động phong trào kháng Nhật mạnh mẽ, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nơi nào có điều kiện thì phát động chiến tranh du kích giành chính quyền ở địa phư­ơng.

Tình hình thế giới có những chuyển biến thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 9 - 8 - 1945, phát xít Đức ký văn bản đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Ngày 15 - 8 - 1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh. Tr­ước tình hình đó, ngày 15 - 8 - 1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Mao Xá (Thiệu Hóa) đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, ngày 17 - 8 - 1945, Ủy ban khởi nghĩa, đồng thời là Ủy nhân dân cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân được thành lập do đồng chí Hoàng Sỹ Oánh (Thọ Phú) làm Chủ tịch.

Đêm 18 - 8 - 1945, cùng với cả nước, tự vệ các làng ở Thọ Sơn thức thâu đêm để nhận nhiệm vụ và chờ lệnh. Hội viên các hội quần chúng khẩn trương may cờ, băng rôn, chuẩn bị thêm vũ khí, gậy gộc, cơm nắm... Đúng giữa đêm 18 rạng ngày 19 - 8 - 1945, lệnh tổng khởi nghĩa phát ra, không khí thôn xóm sôi động chưa từng có. Quần chúng cách mạng, cùng lực lượng tự vệ chiến đấu kéo đến nhà hương chức, lý trưởng thu sổ sách, đồng bài, đồng triện... Theo chỉ đạo của Ủy ban khởi nghĩa phủ Thọ Xuân, đội tự vệ các làng Thọ Sơn do cụ Bùi Văn Nhãn dẫn đầu lên đánh chiếm trại lính ở đập Bái Thương, sau đó kéo về cùng tự vệ và quần chúng các làng trong tổng Tam Lộng tham gia đánh chiếm phủ đường. Trước sức mạnh như triều dâng thác đổ, quan lại phủ Thọ Xuân đã ngoan ngoãn bàn giao ấn tín, sổ sách cho cách mạng. Chính quyền thực dân phong kiến ở Thọ Xuân bị sụp đổ. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thọ Xuân thắng lợi hoàn toàn mà không đổ máu.

Sáng ngày 20 - 8 - 1945, cùng với toàn phủ, nhân dân Thọ Sơn kéo về phủ lỵ dự mít tinh chào mừng cách mạng thắng lợi và lễ ra mắt chính quyền cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân do đồng chí Hoàng Sỹ Oánh làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân. Cuộc mít tinh kết thúc thắng lợi trong tiếng hô vang dội của hàng ngàn quần chúng:

- Ủng hộ chính quyền nhân dân!

- Việt Nam hoàn toàn độc lập!

- Việt Minh muôn năm!

Cách mạng tháng Tám thành công là mốc son chói lọi tạo ra bước ngoặt lịch sử xã nhà. Từ đây, nhân dân Thọ Sơn cùng nhân dân cả nước được sống trong một đất nước độc lập, tự do. Niềm phấn khởi tự hào trước cuộc sống mới đã thôi thúc các tầng lớp nhân dân Thọ Sơn vững vàng cùng cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mớikháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi.

II.                 XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 – 1954)

1. Xây dựng và củng cố chính quyền, ổn định đời sống nhân dân (9/1945 - 10/1948)

Cách mạng tháng Tám thành công đã xóa bỏ ách thống trị thực dân, phong kiến đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân cả nước cũng như nhân dân Thọ Sơn. Với niềm tự hào và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Thọ Sơn tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua cùng nhân dân cả nước từng bước khắc phục những hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại, tiến hành xây dựng cuộc sống mới.

Sau khi chính quyền thực dân, phong kiến bị xóa bỏ, ủy ban nhân dân các làng và tổng Tam Lộng được thành lập, gồm các chức danh: chủ tịch, ủy viên quân sự, ủy viên tài chính, ủy viên văn hóa, đồng thời thành lập Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng tự vệ cách mạng, kịp thời giải quyết khó khăn trong đời sống nhân dân, tình hình mọi mặt ở địa phương từng bước được ổn định. Trong điều kiện chính quyền cách mạng còn non trẻ, nhiệm vụ đặt ra hàng đầu trong lúc này là củng cố chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng và ổn định đời sống nhân dân.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, tại các làng, đội tự vệ kịp thời được củng cố và đẩy mạnh luyện tập quân sự, ngày đêm tuần tra canh gác, giữ trật tự an ninh thôn, xóm, cảnh giác phát hiện và sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của lực lượng phản cách mạng. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước tại các cuộc mít tinh, các cuộc họp toàn dân, cuộc họp của các đoàn thể. Nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, ủng hộ cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng vượt qua khó khăn, xây dựng, bảo vệ chế độ mới.

Ngày 22 tháng 11 năm 1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 63/SL về tổ chức chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương trong cả nước.

Đến cuối tháng 12 năm 1945, theo chủ trương chung, cấp tổng được giải thể, thành lập cấp xã, phủ Thọ Xuân được đổi thành huyện Thọ Xuân. Xã Thọ Sơn được thành lập gồm có các làng: Hữu Cựu, Tiên Sơn, Bái Đề, làng Pheo, Bạ Thôn (nay là làng Bứa, Ngô Công, Hông Vai – nay thuộc xã Xuân Thắng), Đồng Ao, Đồng Sang, Nác Nã…

Sau khi thành lập xã, chính quyền nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên địa bàn xã. Các tổ bầu cử của các làng đến từng gia đình vận động, giải thích cho nhân dân thấy rõ ý nghĩa của cuộc bầu cử. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, trong không khí từng bừng, phấn khởi của toàn dân trong ngày bầu cử Quốc hội, đông đảo cử tri Thọ Sơn, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đủ điều kiện đều được tham gia đi bỏ phiếu. Để nhân dân dễ nhớ, người ta còn làm thơ nhắc tên các ứng cử viên trong khu vực bầu cử:

Thụy, Thông, Đắc, Kỷ, Oánh, Kỳ

Ngọc, Thuần, Tỉnh, Huệ, Thực, Kỳ, Đức, Bân

Ai ơi xin chớ ngại ngần

Bỏ cho người đó là chân anh tài.

Cùng với cử tri toàn tỉnh, các cử tri trong xã Thọ Sơn đã bầu đủ 100% đại biểu của tỉnh Thanh Hóa vào Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tháng 4 năm 1946, nhân dân Thọ Sơn lại đi bầu cử Hội đồng nhân dân 2 cấp (xã và tỉnh). Sau bầu cử, hệ thống chính quyền của Thọ Sơn chính thức được thành lập.

Như vậy, chỉ sau 4 tháng giành được độc lập, hệ thống chính quyền của nước ta từ cơ sở đến Trung ương chính thức được thành lập theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân thắng lợi đánh dấu một bước chuyển quan trọng trên quê hương Thọ Sơn. Từ chính quyền được lập nên do thành quả đấu tranh cách mạng, đến nay chúng ta đã xây dựng được chính quyền do dân bầu ra. Đây là đòn giáng mạnh vào các thế lực thù địch đang chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Biểu hiện sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và ý chí sắt đá quyết tâm bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ đây, Thọ Sơn cùng với nhân dân cả nước có một Nhà nước theo thiết chế cộng hòa, được nhân dân bầu ra, đại diện cho nguyện vọng, ý chí của nhân dân.

Để tiếp tục lãnh đạo các phong trào cách mạng trên địa bàn huyện, tháng 10 năm 1945, Đảng bộ huyện Thọ Xuân được thành lập. Đảng bộ tiến hành tổ chức các lớp nghiên cứu Mác Xít để tuyên truyền lý tưởng cộng sản, qua đó phát triển đảng viên ở các xã. Ngày 11-11-1945, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, tuy nhiên, Đảng ta không từ bỏ vai trò lãnh đạo cách mạng của mình mà chủ trương đi vào hoạt động bí mậtcho phù hợp với yêu cầu cách mạng mới, mọi sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu thông qua Mặt trận Việt Minh các cấp.

Đơn vị hành chính xã ra đời đã tạo thuận lợi về sự thống nhất trong việc triển khai chủ trương của Chính phủ. Địa phương đã tiến hành kịp thời việc thực hiện các chính sách của Chính phủ, như: bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý khác, bãi bỏ phu phen tạp dịch; tiến hành chia công điền, công thổ cho các hộ nông dân nghèo, ít ruộng đất... Đồng thời, thực hiện xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của chế độ cũ để lại, xây dựng đời sống mới, kịp thời cải thiện và ổn định đời sống nhân dân.

Thời điểm này, chính quyền và nhân dân Thọ Sơn gặp vô vàn những khó khăn. Sau 80 năm đô hộ, chế độ thực dân, phong kiến đã để lại một nền kinh tế đổ nát, sản xuất đình đốn, tài chính trống rỗng; nạn đói khủng khiếp với trên 2 triệu người chết đói, trên 90% dân số mù chữ, đời sống kinh tế, văn hóa lạc hậu... Giữa lúc đó, trung tuần tháng 9 năm 1945, quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh vào miền Bắc, nhân cơ hội đó, bọn Việt Nam Quốc dân Đảng nổi dậy âm mưu lật đổ chính quyền non trẻ của ta. Tại Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào uy hiếp chính quyền cách mạng. Bọn phản động nội địa móc nối tìm cách phá hoại. Thực dân Pháp âm mưu quay lại xâm lược đất nước ta một lần nữa.

Lúc này, tại Thọ Sơn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn do thiếu lương thực trầm trọng. Đồng ruộng bị thiên tai, hạn hán, bạc màu không thể sản xuất được. Chính quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ vừa phải đương đầu với tình hình chính trị phức tạp, vừa phải nhanh chóng tìm biện pháp giải quyết nạn đói ổn định đời sống nhân dân. Trước tình thế trên, Việt Minh và chính quyền địa phương đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm thực hiện nhiệm vụ mà Chính phủ đã đề ra, được Hồ Chủ tịch nói gọn lại là: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

Từ tháng 9 năm 1945, Thọ Sơn đã thành lập ban tăng gia sản xuất và ban cứu đói tại các làng, phát động phong trào diệt giặc đói rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Thấm nhuần ý nghĩa của nhiệm vụ cấp bách này, nhân dân Thọ Sơn tích cực hưởng ứng nhanh chóng bắt tay vào sản xuất. Thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, người dân tận dụng từng khoảnh ruộng hoang, đồi vườn trồng rau màu, cây lương thực. Nơi đầm sâu, ao hồ trồng rau muống bè, đồi vườn trồng cây lương thực, như: ngô, khoai, sắn... Thực hiện chỉ đạo của huyện Thọ Xuân, Thọ Sơn thực hiện miễn thuế từ 3 - 5 năm đối với ruộng đất mới khai hoang, phục hóa, nên đã khuyến khích nhân dân hăng hái sản xuất. Đồng thời, chính quyền cách mạng đã thu hồi ruộng công điền, công thổ... vận động các điền chủ nhường cho nông dân nghèo mượn ruộng, hoặc thu tô thấp, kết quả mỗi hộ nông dân đều có từ 1 đến 2 sào ruộng để sản xuất.

Bên cạnh đẩy mạnh sản xuất, nhân dân địa phương đã hưởng ứng sôi nổi phong trào thực hành tiết kiệm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem số gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu người nghèo. Như vậy thì người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa sau, khỏi đến nổi chết đói”[15]. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Thọ Sơn đã có nhiều hình thức phong phú, như: phát động các gia đình làm hũ gạo tiết kiệm, kêu gọi nhân dân ủng hộ quỹ độc lập, phát huy tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau... Các làng đều thành lập ban vận động đến từng gia đình có điều kiện kinh tế khá vận động đóng góp thóc gạo ủng hộ các gia đình đói ăn, đứt bữa. Các gia đình đều thực hiện tiết kiệm bớt bữa, bớt gạo hàng ngày khi nấu cơm bỏ hũ góp gạo cứu đói để ủng hộ người nghèo.

Kết quả, toàn xã Thọ Sơn đã đóng góp được 1.273kg lương thực ủng hộ người nghèo. Ngoài ra, qua hai đợt vận động các gia đình phú hữu đã quyên góp tiền, thóc, được vận chuyển lên huyện để ủng hộ nhân dân Nam Hà. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực, nhân dân các làng Thọ Sơn từng bước vượt qua nạn đói, nhân dân càng tin tưởng vào chính quyền cách mạng, vào chế độ mới...

Một nhiệm vụ quan trọng khác được chính quyền xã Thọ Sơn tập trung thực hiện là chống nạn mù chữ. Bao đời chìm đắm trong đêm dài nô lệ, có đến hơn 90% dân số Thọ Sơn thất học.

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muồn làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người Việt Nam phải hiểu biết về quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[16]. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thọ Sơn đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về chống nạn thất học.

Từ tháng 9 năm 1945, tỉnh Thanh Hóa thành lập Ty Bình dân học vụ. Ngay sau đó, Ty Bình dân học vụ đã chỉ đạo thành lập ban bình dân học vụ từ huyện xuống cơ sở. Cuối năm 1945, ban bình dân học vụ của xã Thọ Sơn được lập. Tại các làng ở đều thành lập ban vận động xóa mù chữ, tiến hành tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào bình dân học vụ. Mỗi làng đều có từ 2 đến 3 giáo viên trực tiếp phụ trách lớp và giảng dạy. Việc tổ chức lớp học được tiến hành tại đình làng, hoặc nhà dân, từ 5 - 7 người trở lên là thành lớp học. Học viên là toàn thể nhân dân, không kể già trẻ em, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tất cả đều tham gia học tập. Huyện Thọ Xuân đã mở lớp bồi dưỡng cho những người tham gia dạy bình dân học vụ. Ngoài số giáo viên phụ trách lớp, số người tham gia giảng dạy cũng rất linh hoạt, với phương châm: người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, anh biết chữ dạy cho em, con biết chữ dạy cho cha mẹ... Học viên học tập tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, thường người lớn học vào buổi trưa, buổi tối. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Đồng bào bây giờ phải biết chữ để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh, ai cũng biết chữ”[17].

Hàng tháng ban bình dân học vụ xã tiến hành kiểm tra, sơ kết từng đợt, kịp thời tuyên dương những tập thể và cá nhân có thành tích cao trong học tập, nhắc nhở những cá nhân không chịu đi học. Nhiều khẩu hiệu được viết trên nong, nia, được treo hai bên đường làng, như: Đi học là yêu nước, Chống giặc dốt cũng như chống giặc ngoại xâm… Người ta còn sang tác thơ ca, hò vè khích lệ nhau đi học:

-                        Lấy chồng biết chữ là tiên

Lấy chồng mù chữ là duyên con bò.

-                        Cô khen cô đẹp, cô giòn

Cô không biết chữ ai còn lấy cô…

Đến cuối năm 1948, đã có hàng trăm người trong xã thoát nạn mù chữ; nhiều cán bộ, giáo viên tích cực với phong trào đã được cấp giấy chứng nhận chiến sỹ diệt dốt. Từ phong trào này, một số học viên sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt ở thôn, xã.

Tháng 6 năm 1946, Ủy ban hành chính xã, Việt Minh và các đoàn thể triển khai phong trào chiến dịch thực hiện nếp sống mới, giáo dục: Cần - Kiệm - Liêm - Chính theo thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cuộc vận động chống mê tín dị đoan, xóa bỏ các tập tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin, việc làng, việc họ... được nhân dân tích cực hưởng ứng tạo nếp sống văn hóa mới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa được bao lâu thì ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp đã gây chiến ở Nam Bộ, âm mưu quay lại xâm lược nước ta. Các tổ chức phản động trong, ngoài nước câu kết với nhau âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của ta. Trong khi đó, chính quyền cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, tài chính thì trống rỗng, mọi hoạt động đều phải dựa vào dân. Trước tình hình đó, nhiệm vụ hàng đầu lúc này là bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững chính quyền non trẻ của cách mạng. Trước âm mưu của kẻ thù, ngày 4 - 9 - 1945, Chính phủ đã ra Sắc lệnh tổ chức quỹ độc lập và phát động tuần lễ vàng, tuần lễ đồng để vận động, huy động sự đóng góp của nhân dân ủng hộ, bảo vệ chính quyền cách mạng và nền độc lập dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Việt Minh và chính quyền xã, các tổ chức đoàn thể đến các gia đình giàu có vận động ủng hộ quỹ độc lập, đóng góp vàng, đồng để Chính phủ có ngân sách hoạt động và chuẩn bị vũ khí chống quân xâm lược. Khẩu hiệu được nhắc đến trong các cuộc họp là: Hãy đem vàng đổi lấy tự do. Nhiều thơ ca hò vè dễ thuộc với nội dung ủng hộ cuộc vận động được phát thanh (bằng loa tay), hoặc truyền khẩu trong nhân dân đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và niềm tin tưởng vào cách mạng, như:

Đeo vàng chỉ tổ nặng tai

Đeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng

Góp vàng đổi súng cối xay

Bắn tan giặc, nước có ngày vinh quang

Người còn thì của hãy còn

Nước tan, nhà mấy vàng son làm gì!

Đã có nhiều gia đình đóng góp mâm, nồi, chậu thau đồng, đồ cúng ở các gia đình bằng đồng như: lư hương, đế nến... Nhiều chị em phụ nữ tự nguyện tháo đồ trang sức: hoa tai, nhẫn vàng, bạc để đóng góp. Kết quả toàn xã đã quyên góp được hơn 18 chỉ vàng, bạc, gần 200kg đồng. Tham gia tuần lễ vàng, tuần lễ đồng, nhân dân Thọ Sơn thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mà nhân dân ta đã phải đổ bao xương máu mới có được.

Sau phong trào tuần lễ vàng, tuần lễ đồng và ủng hộ quỹ độc lập là phong trào ủng hộ quỹ đảm phụ quốc phòng góp phần xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cũng được thực hiện sôi nổi. Để thực hiện nhiệm vụ chống ngoại xâm, các đội tự vệ đã chuyển lên thành lập các đội dân quân, du kích và tiến hành rèn sắm vũ khí, luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu.

Trong thời gian này, để mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc, củng cố vững chắc khối đoàn kết toàn dân, ngày 29 - 5 - 1946, thực hiện chủ trương của Đảng, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tại địa phương, hội viên các đoàn thể cứu quốc và Liên Việt đã đoàn kết tích cực hoạt động đạt hiệu quả cao trong các cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, kiến quốc, đấu tranh chống thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta...

Sau khi trắng trợn xóa bỏ đàm phán hòa bình, tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp đã ngang nhiên đánh chiếm Hải Phòng và Hà Nội. Trước tình hình đó, để bảo vệ Tổ quốc, ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị mở rộng tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Pháp trên phạm vi toàn quốc. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, đài Tiếng nói Việt Nam phát lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý chí sắt đá: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[18]. Ngày 22 tháng 12 năm 1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến đã vạch rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, với phương châm của cuộc kháng chiến là: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến và tự lực cánh sinh. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, nhân dân Thọ Sơn đã cùng nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, đồng tâm đứng dậy đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.

Để thuận tiện cho việc tổ chức kháng chiến, đáp ứng nhu cầu chi viện cho tiền tuyến, đầu năm 1947, theo chỉ đạo của huyện Thọ Xuân, Ủy ban kháng chiến xã Thọ Sơn được thành lập. Thực hiện Sắc lệnh số 91-SL ngày 1 - 10 - 1947, Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính xã Thọ Sơn được sáp nhập thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã[19].

Sau khi kiện toàn tổ chức, Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã Thọ Sơn tập trung lãnh đạo xây dựng hậu phương kháng chiến, chuẩn bị mọi điều kiện cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến.

Đáp lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Việt Minh xã đã lãnh đạo nhân dân tích cực chuẩn bị mọi mặt cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến.

Trong lúc cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đang nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hóa, từng bước xây dựng hậu phương vững mạnh, thì ngày 20 - 2 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh đạo tối cao của cuộc kháng chiến vào thăm Thanh Hóa. Người nói chuyện với cán bộ của tỉnh tại Rừng Thông (Đông Sơn), nói chuyện với đại biểu thân sỹ, trí thức phú hào tại Trại Phủ Hùng, xóm Thọ (Đông Tân) và nói chuyện với nhân dân tại nhà Bác Cổ thị xã Thanh Hóa. Người căn dặn cán bộ đối với bản thân, đối với đồng chí, đối với công việc, đối với nhân dân, đối với đoàn thể phải như thế nào. Người phân tích thế của ta và thế của địch trong cuộc kháng chiến và khẳng định: “Cả ba: thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều lợi cho ta”. Người kêu gọi nhân dân trong tỉnh đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiêu thổ kháng chiến và đề nghị cán bộ và nhân dân xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, các địa phương thi đua xây dựng huyện kiểu mẫu, xã kiểu mẫu, làng kiểu mẫu, với cách làm “đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân”. Người còn căn dặn: “phải làm các việc thiết thực, từ dễ đến khó. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, kể hàng triệu nhưng không làm được[20]”.      

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh và chính quyền xã, nhân dân xã nhà dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, quyết tâm nỗ lực phấn đấu trên các mặt sản xuất, tiết kiệm, xây dựng nếp sống mới, cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất hơn nữa”, “Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây”. Các đoàn thể cứu quốc đi đầu trong phong trào, các hình thức tăng gia sản xuất cũng rất đa dạng, phong phú. Chính quyền và các đoàn thể cứu quốc còn đến các gia đình nhiều ruộng vận động cho người nghèo mượn ruộng, hoặc thu tô thấp để nhân dân sản xuất. Một số điền chủ có tư tưởng tiến bộ đã tự nguyện “hiến điền” cho dân nghèo. Ngoài sản xuất lúa, màu, chính quyền còn vận động nhân dân chăn nuôi gia súc, gia cầm, duy trì các cây truyền thống để sản xuất thủ công, như; trồng bông, trồng dâu nuôi tằm...

Trong năm 1947, thực hiện nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến của Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, dân quân, du kích và nhân dân Thọ Sơn đã cùng dân quân, du kích trong huyện thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Các thôn đều đào hào, đắp công sự chiến đấu, rào làng chiến đấu, đóng cọc ở những địa điểm địch có thể nhảy dù. Làng được rào bằng tre, có cổng đóng mở để kiểm soát ngăn ngừa kẻ gian trà trộn... Hàng đêm dân quân, du kích trực chiến và tuần tra canh gác nghiêm ngặt. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch khi vào thăm Thanh Hóa: “Phá hoại là để kháng chiến”, “tản cư cũng là kháng chiến”, “Phá để ngăn bước tiến của quân thù”[21]

Hơn 2 năm sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đã trải qua muôn vàn khó khăn, từng bước xây dựng cuộc sống mới và thu được kết quả rất đáng tự hào. Đây là tiền đề quan trọng để nhân dân trong xã bước tiếp cuộc hành trình đẩy gian khó trong những năm tiếp theo.

2. Xây dựng hậu phương kháng chiến, cùng cả nước đánh thắng thực dân pháp xâm lược (1948 - 1954)

        Thực hiện Sắc lệnh 62-SL ngày 5 - 7 - 1947 của Chính phủ, huyện Thọ Xuân có sự điều chỉnh lại đơn vị hành chính cấp xã theo hướng sáp nhập các xã lớn thành các xã nhỏ hơn. Theo đó, tháng 11 năm 1948, xã Thọ Sơn sáp nhập với xã Duy Tân (Thọ Ngọc) và xã Đoàn Kết (Thọ Cường) thành xã Thọ Ngọc. Đồng chí Đinh Văn Học được bầu là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Lúc này địa bàn của xã trải dài từ các làng của xã Thọ Ngọc, Thọ Cường lên tận các làng miền núi của Thọ Sơn. Đây là một trong những khó khăn trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã.

Đồng thời với việc thành lập xã mới, Chi bộ xã Thọ Ngọc (cũ) cũng được thành lập, đồng chí Lê Văn Lân được bầu làm Bí thư. Chi bộ Đảng ra đời đánh dấu bước chuyển quan trọng của phong trào cách mạng ở địa phương. Nghị quyết Chi bộ đề ra là đẩy mạnh phát triển đảng viên, tiến tới mỗi làng, hoặc cụm làng phải có đảng viên để lãnh đạo các phong trào cách mạng. Chi bộ đã ra nghị quyết trong đó tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng, cụ thể là thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch xây dựng Thọ Ngọc thành xã kiểu mẫu.

Để nhanh chóng ổn định tình hình, Chi bộ tập trung lãnh đạo củng cố và gấp rút chuẩn bị công tác kiện toàn lại bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể cứu quốc ở địa phương.

Ngay sau khi được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, trực tiếp là Mặt trận Việt Minh, chính quyền xã nhanh chóng bắt tay lãnh đạo nhân dân xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến. Từ cuối năm 1948, Việt Minh và chính quyền xã đẩy mạnh phong trào “thi đua ái quốc” theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Trên mặt trận sản xuất, Việt Minh, chính quyền xã phát động nhân dân mạnh tăng gia sản xuất, khai hoang mở rộng diện tích, tích cực làm thủy lợi, khoanh vùng giữ nước đồng cao, tháo nước đồng sâu để gieo cấy. Phát động nhân dân làm phân xanh, ủ phân chuồng, phân bùn bón ruộng, học tập kinh nghiệm trồng khoai lang ụ tại sân, vườn. Do tích cực sản xuất nên lương thực và rau màu đạt sản lượng cao, bảo đảm đời sống nhân dân và tiết kiệm lúa gạo gửi ra tiền tuyến. Đồng thời, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ đã triển khai công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Sắc lệnh giảm tô 25% (tháng 7-1949), hầu hết địa chủ, phú nông ở địa phương đã thực hiện giảm tô, tuy chưa đạt 25%, nhưng đã tạo điều kiện nâng cao đời sống người nhận ruộng. Bên cạnh đó, các cuộc vận động hiến điền cũng được đa số địa chủ, phú nông thực hiện, kết quả toàn xã hiến được 97 mẫu ruộng để chính quyền xã cấp cho nông dân nghèo. Đồng thời, chính quyền còn vận động các gia đình có tiền, thóc cho vay giảm tức xuống 10%. Do làm tốt công tác giảm tô, giảm tức, đã khích lệ bà con nông dân hăng hái sản xuất đạt năng suất cao, sản lượng lúa, màu tăng lên. Đó cũng là thắng lợi của Đảng trong thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo niềm tin cho nhân dân, chiến sỹ nơi tiền tuyến yên tâm kháng chiến, tạo nên khối đoàn kết toàn dân góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Để đóng góp cho cuộc kháng chiến được công bằng, hợp lý, huy động sự đóng góp của các tầng lớn nhân dân cho cuộc kháng chiến theo khả năng của từng hộ, Chính phủ đã ra Sắc lệnh thuế nông nghiệp. Đầu năm 1951, các đồng chí cán bộ huyện Thọ Xuân đã tham dự lớp tập huấn của tỉnh tại đình Sim (Hợp Thành) do đồng chí Lý Ban, Ủy viên Trung ương Đảng về chỉ đạo. Tại đây, các đồng chí được giảng viên giải thích chính sách thuế nông nghiệp của Chính phủ, nêu rõ sự khác nhau giữa thuế cũ và thuế mới; được tập huấn cách xây dựng kế hoạch, phân loại hộ, nắm trích lục ruộng đất của từng hộ đối chiếu với hiện tại, tiến hành khảo sát từng khu, từng vùng, từng ruộng; căn cứ thu hoạch thực tế từ trước định ra 10 hạng đất để xác định hạng thuế, sau đó đưa ra cuộc họp toàn dân để bình thuế công khai. Do được tuyên truyền, giải thích cặn kẽ cho từng đối tượng, nên hầu hết nhân dân đều đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, cũng còn một số điền chủ tìm mọi cách giấu sản lượng, giấu diện tích, phân tán ruộng đất để trốn thuế, hoặc kêu thuế mới cao không chịu nộp. Nhân dân đã đấu tranh trực diện với những đối tượng này đòi đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế, các tổ chức đoàn thể cứu quốc và Ban thuế đã kịp thời, giải thích nên các làng ở Thọ Sơn không còn hiện tượng dây dưa nợ thuế.

Là địa phương có phong trào phát triển mạnh, các làng của Thọ Sơn, cũng như nhân dân trong xã Thọ Ngọc luôn đi đầu trong các phong trào ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Từ năm 1947 đến năm 1950, nhân dân trong xã đã tích cực tham gia các đợt vận động như: mùa đông binh sĩ, ủng hộ quỹ Đảng, ủng hộ quỹ dân quân tự túc, ủng hộ quỹ mua súng, ủng hộ bộ đội địa phương, tham gia quỹ đảm phụ quốc phòng, mua công phiếu kháng chiến, bán lúa khao quân của Hồ Chủ tịch, mua công trái quốc gia. Chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã tổ chức nhiều hình thức phong phú nhằm khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, tạo nên khí thế thi đua trong nhân dân như làm thơ ca kêu gọi, biểu dương người đóng góp tích cực cho kháng chiến qua thông tin bằng loa. Tổ chức các buổi ủng hộ công khai, ai ủng hộ nhiều được ngồi ghế cao trong hàng ghế danh dự, ai ủng hộ nhiều nhất sẽ được giải quán quân... Nhờ vậy, dù còn khó khăn nhưng nhân dân các làng của Thọ Sơn vẫn tích cực tham gia các phong trào ủng hộ kháng chiến.

Trong đợt vận động quỹ dân quân tự túc, và bộ đội địa phương, các làng Thọ Sơn đã cùng với nhân dân toàn xã, quyên góp được 32 tấn thóc, mua được 128 cây kiếm, mác, 102 quả lựu đạn, 36 quả mìn để trang bị cho tự vệ xã. Đầu năm 1948, nhân dân Thọ Ngọc (cũ) tham gia mua công phiếu kháng chiến với số tiền là 82.135 đồng. Sang năm 1949, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân bán lúa để Chính phủ khao quân đội nhân ngày Quốc khánh, nhân dân đã bán được 94 tấn thóc. Cũng trong thời gian này, nhân dân bán lúa khao quân Hồ Tùng Mậu (ủng hộ bộ đội địa phương) được 76 tấn. Cuộc vận động ủng hộ quỹ đảm phụ quốc phòng nhân dân đã ủng hộ được 61.127 đồng bạc và 9 tấn thóc[22].

Như vậy, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, mà trực tiếp là Mặt trận Việt Minh, cán bộ và nhân dân trong xã đã tích cực thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng. Nhân dân các làng của Thọ Sơn vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, xây dựng nếp sống mới vừa củng cố lực lượng dân quân, tự vệ, chuẩn bị mọi điều kiện để sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Đó là những đóng góp rất đáng tự hào mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong giai đoạn lịch sử này.

Ngoài chiến trường, bộ đội ta đang chuyển từ giai đoạn cầm cự sang giai đoạn phản công, những tin thắng lợi liên tiếp đưa về làm nức lòng người ở hậu phương. Chiến trường mở rộng, yêu cầu sức người, sức của cho kháng chiến ngày càng lớn, cùng với việc đóng góp lương thực, thực phẩm, nhân dân các làng ở Thọ Ngọc (cũ) đã lên đường tham gia dân công tiếp vận. Toàn xã đã tham gia 9 đợt dân công của các chiến dịch, như: chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Tây Bắc, riêng chiến dịch Điện Biên Phủ tham gia 4 đợt, với 1.272 lượt người tham gia.

Dù trong hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn đủ bề, nhưng công tác văn hóa - xã hội ở các làng Thọ Sơn vẫn tiếp tục phát triển. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được đẩy mạnh, đến năm 1949, Thọ Ngọc (cũ) đã được công nhận hoàn thành việc xóa mù chữ. Cũng trong năm 1949, trường tiểu học của xã ra đời đảm nhận dạy chương trình phổ thông do Bộ Giáo dục Quốc gia ban hành. Ngoài trường công lập trong xã còn có trường dân lập, với hình thức “cả làng góp chung gạo nuôi một thầy giáo”, như gợi ý của Hồ Chủ tịch trong lần về thăm Thanh Hóa. Phong trào giáo dục phát triển đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ cán bộ cho các đoàn thể và chính quyền các cấp.

Trong điều kiện còn thiếu thốn thuốc tây, trong khi bệnh nhân nhiều người là dân công từ các chiến dịch trở về, đội ngũ cán bộ y tế tích cực vận động nhân dân trồng cây thuốc nam để chữa bệnh. Mặt khác, cấp ủy, chính quyền tăng cường chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường, phát động phong trào ăn chính, uống sôi, làm nhà vệ sinh không để cho dịch bệnh bùng phát.

Công tác thông tin, tuyên truyền, văn nghệ tiếp tục phát triển. Mỗi làng đều có một thông tin viên, kịp thời thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của chính quyền cách mạng đến nhân dân. Những tin chiến thắng từ mặt trận gửi về luôn làm nức lòng người ở hậu phương, động viên mọi người hăng say sản xuất. Những gương người tốt, việc tốt, chính sách của Chính phủ còn được tuyên truyền bằng thơ, vè cho dễ nhớ dễ thuộc.

Đội văn nghệ các làng thường tổ chức nhân các ngày lễ tết, hay kết thúc chiến dịch, mừng chiến thắng. Mỗi khi đội văn nghệ biểu diễn, các gia đình khá giả thường giành nhau nấu cơm phục vụ đội. Có gia đình phú hào ở làng Bứa, Làng Pheo, Bái Đề… còn bỏ tiền mời các gánh hát từ nơi khác về phục vụ nhân dân. Phong trào văn nghệ phát triển mạnh đã tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi ở làng quê, động viên mọi người hăng hái thi đua sản xuất và lên đường phục vụ kháng chiến.

Ngày 11 - 2 - 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được khai mạc tại Tuyên Quang (Việt Bắc). Đại hội đã quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Cuối năm 1951, Chi bộ Đảng Thọ Ngọc (cũ) chính thức ra hoạt động công khai đã đặt niềm tin tưởng vững chắc cho cán bộ và nhân dân trong xã vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Để củng cố và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, từ năm 1951 Đảng ta tạm thời dừng việc kết nạp Đảng viên mới. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ Thọ Ngọc (cũ) tập trung củng cố tổ chức đảng với hai nhiệm vụ cụ thể là: bồi dưỡng cán bộ học tập lý luận và nâng cao chất lượng phê bình và tự phê bình. Thời gian này, Huyện ủy mở các lớp bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, tại đây, người dự học được nghiên cứu các tài liệu như: “Sửa đổi lề lối làm việc” của tác giả XYZ (Hồ Chủ tịch), tập san sinh hoạt Đảng, tu dưỡng đảng viên, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở tài liệu của các lớp bồi dưỡng này, chi bộ đã quán triệt tới toàn thể đảng viên, qua đợt sinh hoạt chính trị này cán bộ, đảng viên trong chi bộ hiểu sâu sắc thêm đường lối lãnh đạo của Đảng, những yêu cầu và nhiệm của địa phương trong giai đoạn cách mạng mới.

Đồng thời với việc bồi dưỡng lý luận, theo hướng dẫn của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ tập trung chỉ đạo các tổ đảng, đảng viên làm tốt công tác phê bình và tự phê bình. Trong phê bình, mọi người đều quán triệt lời dạy của Hồ Chủ tịch: “thân ái với nhau nhưng không che đậy những điều dở. Học cái hay, sửa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kị và khinh rẻ những kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị”([23]). Trong đợt sinh hoạt chính trị lần này, chi bộ đã kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên kém phẩm chất, trì trệ, sợ hy sinh gian khổ, từ đó chất lượng đảng viên ngày càng được củng cố, tăng thêm sức chiến đấu của Đảng.

Từ năm 1952, thực hiện chủ trương của Liên khu IV, Chi bộ Thọ Ngọc (cũ) lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn nhằm đập tan âm mưu chống phá của bọn phản động. Nhân dịp này nhân dân đưa những người còn dây dưa không chịu nạp thuế, những người cố tình trốn dân công ra kiểm điểm trước quần chúng. Qua cuộc đấu tranh này đã nâng cao uy thế chính trị của người lao động, giáo dục những người mắc sai lầm hối cải, giữ vững an ninh chính trị ở làng quê, thúc đẩy việc thực hiện tổng động viên nhân lực, tài lực phục vụ kháng chiến, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.

Tháng 10 năm 1953, để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, đoàn thể và nhân dân tiến hành phát động quần chúng triệt để giảm tô. Do làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nên việc triệt để giảm tô đã giành thắng lợi, khích lệ mạnh mẽ quân, dân hăng hái tham gia kháng chiến.

Tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhân dân các làng của Thọ Sơn đã cùng cả nước hướng về Điện Biên Phủ, huy động cao nhất sức người, sức của cho chiến dịch giành toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của dân tộc. Chiều ngày 7 - 5 - 1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng của quân đội ta phấp phới bay trên nóc hầm chỉ huy của quân đội viễn chinh Pháp.

Tổng kết 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), các làng của Thọ Sơn cùng nhân dân xã Thọ Ngọc (cũ) đã huy động hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm cho chiến trường, hàng nghìn thanh niên lên đường nhập ngũ, tham gia dân công phục vụ các chiến dịch. Nhiều chiến sỹ đã hiến trọn tuổi xuân, hay một phần xương máu của mình vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

Với những thành tích đạt được, tổng kết 9 năm kháng chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã đã vinh dự được Đảng, Chính phủ, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, huyện Thọ Xuân tặng nhiều huân chương, huy chương, bằng khen, giấy khen và nhiều hình thức ghi công khác. “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó, tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó”([24]). Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tự hào và vinh dự đã có những đóng góp nhỏ bé của mình trong chiến công chung của dân tộc.

Chương III

CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1954 - 1975)

I. KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HÓA, GÓP PHẦN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 - 1965)

1. Tiến hành cải cách ruộng đất

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Theo hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 20 tháng 7 năm 1954), miền Bắc nước ta từ vĩ tuyến 17 trở ra hoàn toàn giải phóng; ở miền Nam, chính quyền tay sai phản động Ngô Đình Diệm được sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ, đã phản bội Hiệp định Giơ-ne-vơ, ngang nhiên đặt ách thống trị thực dân kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta.

Đứng trước bối cảnh lịch sử đó, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng Việt Nam là: miền Bắc phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, gắn bó, thúc đẩy lẫn nhau.

Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, các tầng lớp nhân dân xã Thọ Sơn hăng hái bắt tay ngay vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Để phù hợp với tình hình cách mạng mới, theo chỉ đạo chung, tháng 8 năm 1953, thực hiện chỉ đạo điều chỉnh lại địa giới các xã của huyện Thọ Xuân theo hướng chia các xã lớn thành các xã nhỏ hơn để tiện cho quản lý xã hội, xã Thọ Ngọc (cũ) được chia 3 xã: Thọ Sơn, Thọ Cường, Thọ Ngọc. Xã Thọ Sơn có 3 dân tộc an em là: Mường, Thái, Kinh, phân bố ở các làng bản truyền thống gồm: Bái Đề, làng Bứa, làng Pheo, Đồng Cổ, Ổ Công, Nác Nã, Đồng Ao, Đồng Chiêm, Đồng Sang, Bao Lâm, làng Tiên. 

Để nhanh chóng ổn định tình hình, chính quyền xã Thọ Sơn nhanh chóng được thành lập. Một số đồng chí giữ các chức danh chủ chốt của Ủy ban kháng chiến hành chính xã khi mới thành lập gồm:

Đồng chí Bùi Ngọc Chuyên làm Chủ tịch.

Đồng chí Bùi Văn Nghĩa làm Phó Chủ tịch tư pháp.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thư làm Phó Chủ tịch tài mậu.

Đồng chí Lê Đình Phán làm xã đội trưởng.

Cùng với việc thành lập xã, ngày 15 - 2 - 1953, theo quyết định của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ Thọ Sơn chính thức được thành lập gồm 20 đảng viên trước đây sinh hoạt tại Chi bộ Thọ Ngọc (cũ). Đồng chí Lê Văn Tý được cử làm Bí thư lâm thời.

Các tổ chức đoàn thể được thành lập gồm:

Ông Nguyễn Xuân Thư làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã[25].

Ông Lê Đình Văn làm Bí thư Đoàn xã.

Bà Lê Thị Qua làm Bí thư Hội Phụ nữ xã.

Bà Bùi Thị Nguyên làm Bí thư Nông hội.

Sau thời gian chuẩn bị, được sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, ngày 15 - 4 - 1954, Chi bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ nhất. Đại hội bầu Ban Chấp hành Chi bộ gồm 5 đồng chí, đồng chí Lê Văn Tý được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã làm Phó Bí thư, đồng chí Lê Xuân Thìn làm Trực Đảng.

Chi bộ đã ra nghị quyết quan trọng đánh giá việc lãnh đạo các phong trào cách mạng thời gian qua, đồng thời đề ra phương hướng hoạt động thời gian tới. Trong đó tập trung giải quyết vấn đề cứu đói cho nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự của địa phương.

Trong lúc Chi bộ và nhân dân Thọ Sơn đang ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện kế hoạch Ba năm khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa (1954 - 1957)  do Đảng đề ra thì tháng 9 - 1954, một trận lụt lớn chưa từng có xảy ra trên địa bàn Thanh Hóa. Đê sông Chu bị vỡ tại Liên Phô (Thọ Xuân) gây nên trận lụt lớn trên địa bàn huyện Thọ Xuân và nhiều huyện ở Thanh Hóa, nước sông dâng cao tàn phá nhiều hoa màu ở một số làng của Thọ Sơn, nhất là các làng có địa hình thấp như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa...

Đến vụ chiêm năm 1955, Thọ Sơn bị hạn nặng, chi bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân chống hạn cứu lúa. Một mặt, xã cử gần 100 dân công lên công trường đắp đê, sửa đập Bái Thượng, mặt khác phát động toàn dân ra sức chống hạn cứu lúa. Với phương châm “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, nhân dân đã huy động hàng trăm gàu sòng, gàu gai tát nước từ ao ra ruộng, trên các cánh đồng caonhân dân đào được hơn 12 giếng (còn gọi là hố tiểu thủy nông), có giếng rộng tới nửa sào ruộng để lấy nước sản xuất.

Đứng trước thử thách mới, cấp ủy, chính quyền tập trung cứu đói cho nhân dân với phương châm “cứu đói như cứu hỏa”. Chi bộ chỉ đạo các đoàn thể tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cưu mang đùm bọc lẫn nhau, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau vượt qua nạn đói. Động viên các làng khu vực miền núi, như: Nác Nã, Ổ Công… ủng hộ nhân dân các làng bị lụt sắn, khoai, hoặc cho vay không lấy lãi. Mặt khác, Chi bộ, chính quyền kêu gọi nhân dân tích cực tăng gia sản xuất như: trồng sắn, khoai, dong riềng, rau muống... Toàn xã đã khai hoang, phục hóa được hơn 12 mẫu ruộng, đồi để mở rộng diện tích sản xuất, chủ yếu là trồng sắn, khoai. Để cứu đói cho dân, tỉnh đã cho Thọ Sơn vay 950kg thóc, chính quyền đã kịp thời phân phát cho các gia đình khó khăn nhất. Bằng các biện pháp trên, trong thời gian ngắn, nạn đói được giải quyết, cuộc sống nhân dân dần ổn định, cả xã không có ai bị chết đói.

Vào vụ cấy, Thọ Sơn thiếu giống nặng, huyện phải cho vay 817 kg thóc giống, đợt 2 được bổ sung 285 kg để sản xuất. Nước rút đến đâu, sản xuất đến đó. Với khẩu hiệu “Trời làm mất, bắt đất phải đền”, nhân dân vào vụ với một quyết tâm cao để giành một vụ chiêm thắng lớn.

Vừa đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, Thọ Sơn còn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ huyện giao. Ngoài số dân công đi đắp đê sông Chu, tháng 10 năm 1955, Thọ Sơn lại điều 58 dân công đi làm tuyến đường 217 kéo dài 5 tháng. Ở địa phương, Chi bộ tổ chức làm giao thông nông thôn mở rộng đường thôn xóm, phát quang bụi rậm, đặc biệt là mở rộng các con đường liên hương nối giữa các làng thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân.

Cách mạng thành công nhưng khẩu hiệu, cũng là ước mơ ngàn đời của người nông dân “Người cày có ruộng” vẫn chưa trở thành hiện thực. Nhằm hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 4 - 12 - 1953, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột.

Trên cơ sở thành công của đợt giảm tô, nông dân Thọ Sơn bước vào cải cách ruộng đất với một khí thế: “Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”, “Ngàn năm bể động một lần. Trời rung, đất chuyển nhân dân vui mừng”. Đội cải cách về xã, trước hết tìm hiểu tình hình địa phương, “bắt rễ, sâu chuỗi” với thành phần bần, cố nông để làm chỗ dựa. Tiến hành phân loại thành phần giai cấp, phân định rõ nông dân và địa chủ. Sau đó với phương châm “dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết với trung nông, liên hiệp với phú nông, cô lập địa chủ” để thực hiện cải cách ruộng đất.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, đội cải cách đã tiến hành tuyên truyền cho giai cấp nông dân thấy rõ sự bất công của chế độ cũ, tích cực tham gia, giúp đỡ đội cải cách tiến hành nhiệm vụ, không khí đấu tranh ở các làng sôi sục, nông dân đấu tố mạnh mẽ, tố cáo sự bóc lột của địa chủ, cường hào, ác bá.

Đội cải cách đã đọc lệnh trưng thu, trưng mua tài sản của các gia đình địa chủ gồm hàng chục mẫu ruộng, hàng chục căn nhà, hàng trăm trâu bò và nhiều tài sản, công cụ khác. Số tài sản thu được của địa chủ được chia cho nông dân theo nguyên tắc: “thỏa mãn bần, cố, chiếu cố trung nông, đả thông địa chủ”.

Qua cuộc cải cách ruộng đất, ưu thế của giai cấp nông dân được đề cao hơn bao giờ hết, vị thế chính trị của giai cấp địa chủ bị đè bẹp, chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất hàng ngàn năm bị xóa bỏ. Tất cả bần, cố nông trong xã được chia ruộng đất và nông cụ sản xuất, nhà ở. Mơ ước ngàn đời của người nông dân “người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi có tính chất chiến lược của cải cách ruộng đất, trong quá trình thực hiện ở xã Thọ Sơn cũng như các địa phương ở miền Bắc đã phạm phải một số sai lầm làm ảnh hưởng đến đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong nội bộ Đảng, đoàn kết ở nông thôn, như: không ưu tiên địa chủ kháng chiến, quy oan một số gia đình cán bộ, đảng viên, dập khuôn máy máy khi đề ra tỷ lệ phần trăm số địa chủ, tổ chức đảng ở địa phương không còn thực quyền trong cải cách ruộng đất…

Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy Thọ Xuân, đầu tháng 11 năm 1956, Chi bộ Đảng, Ủy ban nhân dân xã Thọ Sơn đã triển khai quán triệt Nghị Quyết 10 của Ban Chấp hành Trung ương và thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương về công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất ở địa phương. Chỉ sau thời gian ngắn, đến tháng 12 năm 1956 đã thu được kết quả, có 30% trong tổng số các gia đình địa chủ, phú nông, trung nông được hạ thành phần. Huyện ủy Thọ Xuân cũng đã có quyết định khôi phục lại đảng tịch cho 3 đảng viên bị xóa Đảng tịch trong cải cách ruộng đất. Số gia đình bị quy sai thông cảm với đội cải cách, những gia đình bần, cố nông đã trả lại nhà cửa, ruộng đất, nông cụ cho các gia đình bị quy sai.

Công tác sửa sai đạt kết quả đã góp phần tạo sự đoàn kết ở nông thôn; tình làng, nghĩa xóm, tình anh em, bè bạn, cha con được cải thiện hơn. Trật tự an ninh được giữ vững, các tầng lớp nhân dân ổn định sinh hoạt, đời sống đã thúc đẩy phong trào thi đua khôi phục kinh tế, xã hội ở địa phương.

Về công tác Đảng, đội cải cách ruộng đất về tiến hành sắp xếp lại công tác tổ chức, tháng 5 năm 1955, đồng chí Bùi Văn Năm làm Bí thư Chi bộ. Đến tháng 12 năm 1955, đồng chí Lê Văn Tý làm Bí thư thay đồng chí Bùi Văn Năm. Đây là giai đoạn công tác lãnh đạo, quản lý ở địa phương có nhiều xáo trộn, kinh tế gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên, Chi bộ đã lãnh đạo chính quyền, đoàn thể vượt qua khó khăn từng bước ổn định đời sống nhân dân, đấy mạnh sản xuất.

Các đoàn thể quần chúng được đổi tên gọi, cụ thể:

- Mặt trận Liên Việt đổi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Hội Phụ nữ cứu quốc đổi tên là Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

- Đoàn Thanh niên cứu quốc đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.

- Hội Nông dân cứu quốc đổi tên thành Hội Nông dân Việt Nam.

Quán triệt, thực hiện chỉ thị, nghị quyết cấp ủy cấp trên về nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, Chi ủy xã đã đề ra các giải pháp, phát động toàn dân dấy lên phong trào thi đua, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế. Trước hết là vận động nhân dân tham gia tổ đổi công.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thiên tai, như đa số các làng đều thành lập được  từ 2 đến 6 tổ. Các tổ đổi công ra đời tạo điều kiện cho nhân dân giúp nhau trong sản xuất... Tuy phong trào tổ đổi công chưa thực sự mạnh mẽ, nhưng đây là việc làm quan trọng, bước đầu đưa người nông dân vào làm ăn tập thể,

Công tác giáo dục được cấp ủy, chính quyền chú trọng. Năm học 1955 - 1956, Trường cấp I Thọ Sơn được thành lập gồm có 2 lớp ở thôn Bái Đề, lớp1 đặt tại nhà ông Trịnh Huy Long do thầy giáo Chất (Thiệu Hóa) dạy, lớp 2 đặt tại nhà ông Trịnh Như Huy do thầy giáo Lệ (Thọ Trường, Thọ Xuân) dạy. Từ năm 1957, các lớp học được chuyển về làng Ngô Công, trên khu đất nhà ông Cố Sâm, cố Thịnh, cố Thư. Số học sinh có trên 50 cháu, gồm lớp 1, lớp 2, lớp 3. Tuy buổi đầu điều kiện phục vụ cho giảng dạy, học tập của thầy và trò gặp nhiều khó khăn, nhưng được cấp ủy, chính quyền và nhân dân luôn quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho con em học tập.

Sau 3 năm (1955 - 1957), dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, các tầng lớp nhân dân Thọ Sơn đã từng bước đẩy lùi khó khăn, thử thách, nhanh chóng phục hồi được sản xuất, phát triển kinh tế - văn hóa, từng bước ổn định tình hình chính trị và đời sống của nhân dân. Thành tích đó, đã tạo tiền đề cho những bước phát triển mới của phong trào cách mạng địa phương trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tiếp theo.

2. Thực hiện phong trào 3 ngọn cờ hồng (1958 - 1960)

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, tháng 12 năm 1958, Chi bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ IV để đánh giá việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ vừa qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ mới. Đồng chí Bùi Văn Thuyết được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ này trong bối cảnh miền Bắc đang sôi động thực hiện phong trào 3 ngọn cờ hồng, với mục tiêu là xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể.

Tháng 5 năm 1958, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (khóa II) đã đề ra Nghị quyết về việc cải tạo các thành phần kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cá thể. Quán triệt và học tập tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 14, Chi bộ đã chỉ đạo các đoàn thể quần chúng tuyên truyền vận động nông dân tự nguyện viết đơn xin gia nhập hợp tác xã.

Sau thời gian vận động tuyên truyền và giác ngộ với phương châm: “tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi”, một số hộ nông dân đã tình nguyện làm đơn gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Trên cơ sở lựa chọn những tổ đổi công làm ăn có hiệu quả, quản lý, điều hành tốt, Chi bộ, chính quyền xã Thọ Sơn quyết định thành lập hợp tác xã Đại Đồng vào tháng 1 năm 1958. Đại hội xã viên đã thống nhất bầu ông Lê Đức Nhẩn là Chủ nhiệm hợp tác xã.

Đến tháng 1 năm 1959, Thọ Sơn thành lập được thêm 5 hợp tác xã nông nghiệp gồm:

Hợp tác xã Bái Đề, do ông Nguyễn Văn Dong làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Ngô Công, do ông Quách Văn Thư làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Đồng Sang, do ông Bùi Khắc Bơn làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Bao Lâm, do ông Bùi Văn Tía làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Cựu Tiến, do ông ……. làm Chủ nhiệm.

Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng ta thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt “ai thắng ai” giữa hai con đường làm ăn tập thể và làm ăn cá thể ở nông thôn. Đây cũng là thước đo về phẩm chất, đạo đức, lập trường giai cấp của đảng viên, thước đo về sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Chi bộ xã nhà.

Chi ủy xã đã tổ chức nhiều đợt học tập từ trong Đảng đến quần chúng, tổ chức tuyên truyền cổ động khắp các thôn xóm, với nhiều hình thức như làm ca dao cho người dân dễ nhớ, dễ thuộc. Cho đến nay nhiều người vẫn nhớ những câu ca dao như:

Sáng trăng sáng cả sân đình

Sao cô làm cỏ một mình hỡi cô?

Để cho cỏ mọc lút bờ

Một mình cô phải trỉu lo trăm đường!

Cùng với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, Chi bộ tập trung xây dựng hợp tác xã Tín dụng và hợp tác xã mua bán. Đây là 3 mô hình kinh tế tập thể ở nông thôn có tác dụng tác động lẫn nhau cùng phát triển, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển hài hòa ở nông thôn. Phong trào xây dựng 3 loại hình hợp tác xã là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của thời kỳ này được gọi là phong trào “Ba ngọn cờ hồng”.

Sau thời gian vận động, đến năm 1958, hợp tác xã tín dụng ra đời, với số vốn 2.500 đồng huy động bằng hình thức đóng cổ phần. Hợp tác xã tín dụng tổ chức Đại hội xã viên, ông Lê Đình Vẹ được bầu làm Chủ nhiệm đầu tiên của hợp tác xã. Việc thành lập các hợp tác xã tín dụng cũng theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Các xã viên tham gia bằng hình thức mua cổ phần, lợi tức được chia theo cổ phần.

Việc xây dựng 3 ngọn cờ hồng của địa phương là một đóng góp tích cực trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn ở Thọ Sơn, là bước chuyển quan trọng từ sở hữu cá thể sang sở hữu tập thể để bước tới chế độ sở hữu toàn dân. Chi bộ đã đề ra phương hướng giai đoạn mới, trong đó tập trung đẩy mạnh việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương.

Trong công tác lãnh đạo, chi bộ nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác xây dựng các tổ chức đoàn thể và chính quyền ở địa phương. Đây là giai đoạn các tổ chức trong địa phương, nhất là Đoàn thanh niên và Hội Phụ nữ có nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi, đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xây dựng đời sống mới.

Những năm vừa qua, được sự  quan tâm chỉ đạo của chi bộ, bộ máy chính quyền ở Thọ Sơn từng bước được kiện toàn và đi vào ổn định. Tuy nhiên, do trình độ số đông cán bộ lại hạn chế, nên trong công việc không tránh khỏi lúng túng, sai lầm. Để chính quyền thật sự là của dân, do dân và vì dân, Chi bộ đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị 46-TT/CP ngày 19 - 4 - 1960 về công tác giải quyết khiếu tố, khiếu nại của nhân dân. Qua đợt học tập này, bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của một số cán bộ giảm hẳn. Cũng qua phát hiện của quần chúng để nhắc nhở và kiểm điểm các cán bộ hợp tác xã nông nghiệp làm thất thoát tài sản công, hoặc tinh thần trách nhiệm chưa cao.

Về công tác Đảng, tháng 12 năm 1959, Chi bộ tổ chức Đại hội lần thứ V, đồng chí Lê Văn Tý được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư. Sau Đại hội, Cấp ủy Đảng tập trung quán triệt, học tập Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (mở rộng), tháng 4 năm 1959 về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp. Qua đợt học tập, đại đa số đảng viên xác định rõ nhiệm vụ chính trị, đồng thời giữ vững và phát huy tinh thần, lập trường giai cấp, nỗ lực đi đầu và vận động nhân dân làm theo. Nhờ vậy, đến năm 1960, có gần 80% số hộ ở các làng gia nhập hợp tác xã nông nghiệp.

Như vậy, 5 năm sau ngày hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đã từng bước vượt qua khó khăn, giành được những kết quả bước đầu trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng. Địa phương đã tiến hành cải cách ruộng đất, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể thông qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa xã hội quan trọng trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương.

3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

Tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc và chỉ tiêu phương hướng kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) với nội dung: “Phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển nông nghiệp, hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với nông nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh...[26]

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, từ năm 1961, Thọ Sơn cùng với nhân dân miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất với nhiều phong trào thi đua sôi nổi.

Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng cấp trên, Chi bộ Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chính trị của địa phương thời điểm này là: Tiếp tục, đẩy mạnh đưa hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao, với quy mô liên xóm, liên thôn; từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; xây dựng hợp tác xã mua bán, hoàn thành mục tiêu xây dựng 3 ngọn cờ hồng ở địa phương...

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, tháng 12 năm 1961, Chi bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ VI. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, đồng chí Bùi Bá Hậu được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đại hội đã đánh giá cao thành tích mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong nhiệm kỳ qua, đề ra phương hướng nhiệm kỳ mới, đồng thời kêu gọi cán bộ và nhân dân trong xã phát huy truyền thống của quê hương, vượt mọi khó khăn vươn lên giành những thắng lợi trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng.

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương. Trong đó tập trung chỉ đạo cuộc vận động thi đua học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), do Trung ương Đảng phát động. Phong trào đã tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong các hợp tác xã nông nghiệp. Xã viên thi đua tăng năng suất với khí thế Đại Phong trên mỗi đường cày, mỗi rãnh cấy, luống khoai. Ở bất cứ công việc nào cũng cố gắng làm có năng suất cao, chất lượng tốt. Trên các ruộng bèo hoa dâu, trên cán đồng lúa cao sản, trên các công trình thủy lợi, Đoàn Thanh niên phấn đấu đạt danh hiệu “Trai gái Đại Phong”, “Thanh niên Tháng Tám” với từng mức chỉ tiêu cụ thể.

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 1962, Chi bộ Thọ Sơn tập trung lãnh đạo đưa các hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Đây là bước chuyển rất quan trọng trong việc từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn. Đồng chí Trường Chinh đã nói: “Tổ đổi công là mầm mống của chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã bậc thấp là nửa chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã bậc cao là hoàn toàn chủ nghĩa xã hội”.([27]) Theo mô hình hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trước kia, xã viên góp ruộng đất, trâu bò vào làm ăn chung, phân phối sản phẩm vừa chia theo hoa lợi, vừa chia theo lao động. Như vậy trên thực tế, ruộng đất, trâu bò vẫn thuộc sở hữu cá nhân. Trong khi đó, mô hình hợp tác xã nông nghiệp bậc cao, tư liệu sản xuất được sở hữu tập thể, bằng cách tính theo cổ phần, gia đình nào ít tư liệu hơn mức bình quân chung thì đóng góp bằng tiền trong 3 vụ. Sản phẩm được chia hoàn toàn theo lao động. Đây là điểm mới đụng chạm đến quyền lợi những gia đình nhiều ruộng đất, trâu bò, nên nhiều người không đồng tình. Nhưng nhờ có sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, chính quyền, làm tốt khâu tuyên truyền, vận động hiệu quả nên nhân dân phấn khởi, thi đua xây dựng hợp tác xã.

Đồng thời với việc đưa hợp tác xã nông nghiệp lên bậc cao, Đảng bộ tập trung lãnh đạo xây dựng hợp tác xã toàn thôn và hợp tác xã liên thôn. Đến năm 1963, toàn xã còn 4 hợp tác xã là:

Hợp tác xã Cựu Tiến.

Hợp tác xã Bao Lâm.

Hợp tác xã Ngô Công.

Hợp tác xã Đại Đồng.

Giai đoạn này, Đảng bộ tập trung lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng hệ thống thủy lợi, sân kho, lán trại để phục vụ sản xuất. Tích cực chuẩn bị nguồn phân, chủ động tưới tiêu, áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất, đưa giống mới vào sản xuất, khiến năng suất lúa từng bước được nâng lên.

Dù có nhiều cố gắng, nhưng sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn còn vô vàn khó khăn. Cơ sở vật chất các hợp tác xã thiếu thốn, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, đội ngũ cán bộ trình độ văn hóa còn thấp, lại là bước đi ban đầu nên vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Địa phương đất rộng, người thưa nhiều khu đồng phải bỏ hoang hóa, như: Bờ Tiên, Đồng Chảo, Giếng Lắng, Nổ Mọ, Đồng Chiêm, Rộc San… Nhân dân chỉ sản xuất được những khu vực có nước và làm nương rẫy, chủ yếu vẫn là tự cung, tự cấp…

Năm 1963, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế miền núi của Đảng, hàng trăm lao động từ các xã Xuân Thành, Xuân yên, Phú Yên về địa phương định cư. Vùng đất bà con định canh, định cư khai hoang được nay thuộc làng… và một phần thuộc Nông Trường Sao Vàng.

Giai đoạn này, các hợp tác xã nông nghiệp ở Thọ Sơn thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, vững chắc”. Cuộc vận động được chia làm 2 vòng:

Vòng 1: giúp các hợp tác xã xác định phương hướng sản xuất, lập kế hoạch từng vụ, từng năm; định mức khoán đến từng việc, lập sổ sách thống kê, kế toán về lao động và đất đai.

Vòng 2: giúp các hợp tác xã xác định phương hướng sản xuất, lập kế hoạch từng vụ, từng năm; định mức khoán đến từng việc, định mức chế độ tiền công, thực hiện chế độ 3 khoán, 3 quản và hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo đúng quy định của Bộ Tài chính.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng ủy xã đã làm thí điểm để rút kinh nghiệm ở hợp tác xã Đại Đồng, từ đó chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp trong xã.

Trong quá trình thực hiện, huyện, tỉnh đã cử “cán bộ cải tiến” về giúp đỡ địa phương. Qua quá thực hiện, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất của đội ngũ cán bộ từ các đội sản xuất đến ban quản trị hợp tác xã được nâng lên một bước. Hoạt động của hợp tác xã đã dần dần đi vào nền nếp, việc bình công chấm điểm thực hiệncông bằng hơn. Các công việc như, làm thủy lợi, làm phân bón, chủ động tưới tiêu, áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất, đưa giống mới vào sản xuất được duy trì hiệu quả.

Cuối năm 1963, việc đưa hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao ở địa phương đã hoàn thành. Tuy nhiên, quá trình hình thành quan hệ sản xuất mới ở Thọ Sơn là một quá trình diễn ra lâu dài, gay go và phức tạp. Đây là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cá nhân và tinh thần tập thể, giữa tư tưởng tiến bộ với những thói quen, hủ tục có từ ngàn đời nay của người dân. Hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, “chân ngoài dài hơn chân trong”, làm việc kiểu “tối ngày đầy công” nảy sinh ở một bộ phận xã viên, hiện tượng tham ô tài sản, năng lực quản lý hạn chế của một số cán bộ hợp tác xã. Nhiều xã trong huyện Thọ Xuân đã phải chia nhỏ hợp tác xã như trước kia. Trước tình hình ấy, Chi bộ Thọ Sơn đã kịp thời cuộc vận động “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” do Tỉnh ủy Thanh Hóa phát động. Qua đó, phát huy khối đoàn kết toàn dân, nâng cao tinh thần làm chủ tập thể của người lao động. Cuộc vận động đã mang lại hiệu quả rõ rệt, phong trào hợp tác xã tiếp tục được duy trì, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng phát triển.

Thực hiện chỉ đạo của huyện, tháng 8 năm 1963, Thọ Sơn thành lập hợp tác xã mua bán. Mô hình thương nghiệp này cũng được hình thành theo nguyên tắc: quản lý dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi. Nguồn vốn được huy động bằng hình thức mua cổ phần (mỗi cổ phần 5 đồng). Lợi tức của hợp tác xã được chia theo cổ phần. Khi mới thành lập, xã viên mua được 152 cổ phần, với số tiền 760 đồng. Hợp tác xã mua bán đã nhận hàng từ hợp tác xã mua bán huyện Thọ Xuân, đồng thời khai thác nguồn hàng tại địa phương để phục vụ nhân dân.

Thực hiện Quyết định của huyện ủy Thọ Xuân, năm 1963  Đảng bộ Thọ Sơn được thành lập trên cơ sở Chi bộ trước đây. Đảng bộ Thọ Sơn có 50 đảng viên, sinh hoạt ở 5 chi bộ. Đảng bộ đã tiến hành Đại hội, đồng chí Bùi Bá Hậu tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên Chủ tịch Ủy ban hành chính xã tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư[28].

Đại hội tập trung trí tuệ đánh giá tình hình thực hiện công tác nhiệm kỳ qua và khẳng định: kinh tế của địa phương đang từng bước vượt qua khó khăn, có bước phát triển đi lên; công tác cải tiến quản lý trong các hợp tác xã đã đem lại kết quả khả quan; công tác văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng đều được đẩy mạnh.

Sau Đại hội, Đảng ủy đã phát động nhân dân tiếp tục thi đua thâm canh tăng vụ, cải tiến công cụ sản xuất, như: thay cày chìa vôi bằng cày 51, xây dựng nhà kho, nhà ủ giống, xây dựng chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể.

Công tác thủy lợi được Đảng bộ tập trung chỉ đạo, coi đó là chìa khóa để mở rộng diện tích và nâng cao năng suất lúa ở địa phương. Tận dụng các khe suối tự nhiên, Thọ Sơn đã tiến hành đắp đập làm hồ chứa nước để phục vụ sản xuất. Được sự hỗ trợ của huyện, xã đã huy động hàng ngàn ngày công đào đắp hàng ngàn mét khối đất để làm hồ đập Dốc Đất, hồ đập Cố Kỳ. Các hồ đập ra đời đã góp phần tưới cho hàng trăm mẫu ruộng trên địa bàn xã.

Về chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm được phát động, toàn xã có trên 400 con trâu, bò phục vụ cày bừa giải phóng mặt ruộng, nuôi gà, thả cá phục vụ đời sống xã viên và đóng nghĩa vụ thực phẩm cho nhà nước.

Là một xã có nhiều dân tộc sinh sống, có nhiều làng bản xa trung tâm, đường xá đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế còn thiếu thốn nên giáo dục, y tế của xã gặp nhiều khó khăn. Tuy vật, địa phương vẫn chăm lo cải tạo cơ sở vật chất phục vụ việc học tập của các cháu. Trạm xá xã không ngừng nâng cao chất lượng điều trị các bệnh thông thường trong nhân dân. Công tác vệ sinh phòng bệnh được phát động thường xuyên trong xã. Các dịch bệnh, như: sốt rét, đậu mùa, ho lao... ngày càng giảm dần.

Công tác quốc phòng - an ninh được cấp ủy, chính quyền chú trọng. Lực lượng dân quân được tăng cường củng cố và được luyện tập thường xuyên, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương được giữ vững.

Đảng ủy luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng và hệ thống chuyên chính vô sản ở xã. Nêu cao vai trò làm chủ, vận động nhân dân thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nổi bật là phong trào thi đua học tập các điển hình tiên tiến, như: phong trào học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đại Phong (tỉnh Quảng Bình), học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đông Phương Hồng (huyện Thọ Xuân), học tập và đuổi kịp trường Cấp 1 Hải Nhân (huyện Tĩnh Gia)…

Thời kỳ 1961 - 1963, Trường Cấp Thọ Sơn mới có lớp 3, học sinh học lên lớp 4 phải chuyển xuống Thọ Cường để học. Đến năm học 1964 – 1965, trường có đủ 4 lớp cấp 1 và 1 lớp 5 là lớp đầu cấp 2. Hiệu Trường là thầy Khoát quê ở xã Thọ Cường. Dù khó khăn, nhưng đội ngũ giá viên vẫn bám lớp, bám trường, vận động các cháu trong độ tuổi ra lớp.

Như vậy, dù gặp nhiều khó khăn do điều kiện chủ quan và khách quan đưa lại, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn vẫn đoàn kết, vượt mọi khó khăn thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất mới bước đầu được hình thành, văn hóa - xã hội có bước phát triển mới, quốc phòng - an ninh được giữ vững, tổ chức đảng, hệ thống chuyên vô sản ngày càng vững mạnh. Đây là tiền đề quan trọng để cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục hành trình trên con đường cách mạng mà Đảng và Hồ Chủ tịch đã lựa chọn.

II.  VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1965 - 1975)

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn này trong điều kiện hết sức khó khăn. Sau khi bị thất bại liên tiếp ở miền Nam, đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cơ - ti Lơ - may, tham mưu trưởng không quân Mỹ huênh hoang tuyên bố “đẩy lùi bắc Việt Nam về thời đồ đá[29]”. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (tháng 3 năm 1965) đã khẳng định: “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào”. Cùng với nhân dân miền Bắc, Thọ Sơn bước vào giai đoạn cách mạng mới, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực chi viện cho miền Nam ruột thịt hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ Thọ Sơn tập trung chỉ đạo chuyển hướng chiến lược sang điều kiện thời chiến, góp phần xây dựng hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam. Việc chuyển hướng trong điều kiện mới phải được thể hiện ở tất cả các mặt: sản xuất, văn hóa, an ninh quốc phòng, đời sống xã hội.

1. Trên mặt trận sản xuất

Bước vào thời kỳ mới, đơn vị hành chính huyện có sự thay đổi. Thực hiện Quyết định 177/QĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 1964, của Chính phủ, 20 xã phía bắc của huyện Nông Cống và 13 xã phía nam của huyện Thọ Xuân được tách khỏi huyện cũ để thành lập huyện Triệu Sơn. Từ đây xã Thọ Sơn thuộc huyện Triệu Sơn.

Tháng 4 năm 1965, thực hiện hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ VIII. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 7 đồng chí, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên được bầu làm Bí thư, đồng chí Quách Văn Đản Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm kỳ mới, trong đó: tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho miền Nam ruột thịt; tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; tập trung chỉ đạo chuyển hướng chiến lược sang điều kiện thời chiến, góp phần xây dựng hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam.

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức đảng 4 tốt, đảng viên 4 tốt, làm cho mỗi chi bộ thực sự là hạt nhân chính trị ở nông thôn... Đảng bộ đã đề ra yêu cầu cụ thể đối với đảng viên, đối với chi bộ, tổ đảng để biến cuộc vận động trên thànhnhiệm vụ quan trọng của thời kỳ này.

Năm 1970, Đảng ta chủ trương phát động 3 cuộc vận động lớn: vận động lao động sản xuất, vận động phát huy dân chủ và chế độ làm chủ tập thể ở nông thôn, vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp “lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Việc đề ra 3 cuộc vận động trên cho thấy quyết tâm của Đảng ta ra sức tranh thủ thời cơ thuận lợi, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, yếu kém để đẩy mạnh sản xuất, tăng cường lực lượng kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, đẩy mạnh chi viện cho cách mạng miền Nam.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy Thanh Hóa, hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể, hợp tác xã đẩy mạnh phong trào thi đua “chống Mỹ cứu nước” do Tỉnh ủy phát động (tháng 4 - 1965). Đồng thời hướng dẫn từng đàon thể, từng hợp tác xã, tổ chức đoàn thể xây dựng chỉ tiêu và giao ước thi đua “3 giỏi thắng Mỹ”([30]).

Ngoài mặt trận tin chiến thắng liên tiếp báo về làm nức lòng nhân dân cả nước, ở hậu phương nhân dân Thọ Sơn hăng hái lập công thi đua với tiền tuyến. Giai đoạn này, có thời điểm máy bay Mỹ gầm rú suốt ngày đêm trên bầu trời Thọ Sơn. Nhưng cũng chưa bao giờ không khí toàn dân thi đua sản xuất, sẵn sàng đánh Mỹ ở Thọ Sơn lại cao như thời gian này. Các khẩu hiệu: Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, Giặc đến là đánh, giặc đi lại sản xuất, phong trào thi đua 3 giỏi, phong trào mỗi người làm việc bằng hai, phong trào 3 sẵn sàng, 3 đảm đang, phong trào 5 tấn thắng Mỹ đã trở thành động lực mạnh mẽ cuốn hút đông đảo cán bộ và nhân dân Thọ Sơn. Chính vì vậy, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, nhưng sản lượng lương thực, thực phẩm của xã vẫn liên tục tăng.

Để từng bước đẩy mạnh sản xuất phát triển, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng ủy đã lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện cuộc vận động cải tiến công tác quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (vòng 2) từ năm 1967 đến năm 1972. Mục tiêu là giúp các hợp tác xã định mức lao động, xếp loại công việc, định chế độ tính công điểm, thực hiện 3 khoán, 3 quản và hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo quy định của Bộ Tài chính([31]).

Qua thực hiện cuộc vận động này, hoạt động của Ban Quản trị hợp tác xã dần đi vào nền nếp, việc điều hành sản xuất, nhất là công tác khoán được tiến hành thuận lợi hơn. Cán bộ hợp tác xã nắm được mục đích, ý nghĩa của công tác khoán đối với việc phát huy tiềm năng lao động trong hợp tác xã. Đặc biệt là nắm được phương pháp xác định khối lượng công việc từ đó đề ra mức khoán phù hợp. Trên cơ sở thực hiện chế độ 3 khoán, các hợp tác xã đẩy mạnh 3 mục tiêu trong công nghiệp: 5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động/ha gieo trồng. Có thể nói phong trào thi đua giành 3 mục tiêu trong nông nghiệp, mà trọng tâm là mục tiêu giành 5 tấn thóc/ha gieo trồng (cả năm) đã tạo động lực thi đua sôi nổi trong suốt thời gian dài, có tác dụng to lớn thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Đến năm 1967, năng suất bình quân toàn xã đạt 4,5 tấn/ha/năm, riêng hợp tác xã Đồng Sang được huyện công nhận đơn vị đạt năm tấn thóc/ha gieo trồng.

Trong những ngày sục sôi đánh Mỹ, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ IX và lần thứ X vào năm 1967 và năm 1969. Trong cả 2 kỳ Đại hội này, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Văn Chế, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Với tinh thần lạc quan tin tưởng và khí thế quyết chiến, quyết thắng, Nghị quyết các Đại hội đã nhiệt liệt biểu dương tinh thần tiến công cách mạng của cán bộ và nhân dân trong xã trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Vượt qua muôn vàn khó khăn, cán bộ và nhân dân đã bám đồng ruộng, “tay cày, tay súng” vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Thọ Sơn luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, chi viện tích cực cho chiến trường miền Nam.

Đại hội cũng đã nêu lên những cố gắng và vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự lãnh đạo sát sao của Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi uỷ, sự điều hành của Ủy ban hành chính xã xã, ban quản trị các hợp tác xã trong việc tập hợp, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tập trung lãnh đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các hợp tác xã xây dựng chương trình hành động đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Các hợp tác xã nông nghiệp nhanh chóng rà soát lại ruộng đồng, quy hoạch bờ vùng, bờ thửa, tăng cường đưa các giống lúa mới vào sản xuất, đẩy mạnh phong trào làm phân, đặc biệt là phong trào nuôi bèo hoa dâu, hướng dẫn nhân dân ủ phân, lấy bùn ao... Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào thi đua 5 tấn thắng Mỹ; củng cố hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể; nâng cao hơn nữa hoạt động của các hợp tác xã, hoàn thành cuộc vận động cải tiến công tác quản lý, kỹ thuật vòng 2 trong các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn xã.

Giai đoạn này, các hợp tác xã nông nghiệp đầu tư mua thêm trâu bò để tăng sức kéo, vận động nhân dân nuôi lợn, phấn đấu bình quân mỗi hộ nuôi được 2 con, chú trọng phát triển đàn lợn nái để cung cấp lợn giống cho nhân dân, phấn đấu đạt tỷ lệ 1 lợn nái/25 đầu lợn ở địa phương, củng cố và mở rộng hoạt động của các trại chăn nuôi lợn tập thể, quản lý tốt đàn trâu bò giao cho dân chăm sóc, ngoài ra hợp tác xã còn có trại bò ở Đồng Cốc với trên 100 con. Kết quả đàn trâu bò trong xã tăng 18%, đàn lợn tăng 31%.

Công tác thuỷ lợi được chú trọng, mỗi hợp tác xã thành lập một đội thủy lợi có nhiệm vụ nạo vét, tu sửa, đắp mới hồ đập, kênh mương, bờ vùng, bờ thửa phục vụ sản xuất. Giai đoạn này Thọ Sơn tiến hành đào đắp hàng ngàn mét khối đất hoàn thành hồ đập Ngọc Mép và hồ đập Ngô Công. Trong đó hồ Ngô Công lớn nhất với diện tích 41ha, lưu lượng nước khoảng 1,5 triệu mét khối nước. Đây là hồ nhân tạo có diện tích lớn nhất trong vùng được đào đắp hoàn toàn bằng sức người với quang gánh, cuốc xẻng thô sơ (cả công trình chỉ có 2 chiếc xe kiến an[32]). Việc hoàn thành công trình hồ đập Ngô công đã cung cấp nước tưới cho phần lớn diện tích đất gieo cấy của xã. Ngoài ra còn phục vụ nước tưới cho xã Thọ Tiến và xã Xuân Thắng. Đây là bài ca đẹp về lòng quả cảm, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Thọ Sơn. Cùng với việc cung cấp nước tưới, phong trài khai hoang tiếp tục được đẩy mạnh, Thọ Sơn đã đưa thêm hàng chục mẫu ruộng vào sản xuất.

Trong năm 1973, Thọ Sơn tích cực hưởng ứng chiến dịch “Na Sơn nổi gió” và chiến dịch “Na Sơn” nổi lửa, nhằm chấn chỉnh hệ thống thủy nông, khắc phục lũ lụt và đẩy mạnh công tác thu chiêm làm mùa. Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, vượt mọi khó khăn thách thức khắc phục hậu quả thiên tai. Qua 2 chiến dịch này, địa phương đã đào đắp hàng ngàn mét khối đất củng cố hồ đập, mương máng, đẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân bằng một khí thế khẩn trương.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đặc biệt là các chế độ quản lý trong hợp tác xã nông nghiệp. Phong trào áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng xe cải tiến để vận chuyển, đưa các giống lúa có năng suất cao như: chân châu lùn, nông nghiệp 8… vào sản xuất.Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển khá cả về diện tích lẫn năng suất và sản lượng. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được tăng lên về số lượng và trọng lượng xuất chuồng.

Đây là những minh chứng sống động cho chủ trương nông nghiệp hóa của Đảng trên quê hương Thọ Sơn, góp phần quan trọng vào quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân và chi viện cho miền Nam ruột thịt.

2. Trên mặt trận văn hóa - xã hội

Trong suốt thời kỳ đất nước có chiến tranh, mọi hoạt động văn hóa, xã hội đều hướng vào mục tiêu xây dựng ý thức trách nhiệm công dân, tạo nên phong trào thi đua rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân “Tất cả vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vì miền Nam ruột thịt”. Những phong trào thi đua lớn luôn tạo nên không khí sôi động khắp làng quê Thọ Sơn. Công tác thông tin, tuyên truyền được tăng cường. Tinh thần tập thể được đề cao với khẩu hiệu “Mỗi người vì mọi người”, đề cao những tấm gương cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp chung. Có thể nói đây là giai đoạn lý tưởng sống đẹp, sống vì tập thể, vì Tổ quốc, vì nhân dân được phát huy cao độ, tạo nên động lực phấn đấu, thi đua trong mọi tổ chức đoàn thể, mọi người dân ở Thọ Sơn.

Mặc dù hoàn cảnh khó khăn, nhưng giáo dục Thọ Sơn vẫn phát triển. Thời kỳ không quân Mỹ đánh phá trên địa bàn huyện, bom nổ, máy bay gầm rú suốt ngày đêm, nhưng thầy và trò các trường Thọ Sơn vẫn vững vàng trên mặt trận giáo dục. Từ năm học 1972 - 1973, Trường Cấp 2 Thọ Sơn được thành lập, có đủ 3 lớp học (lớp 5, lớp 6, lớp 7) với 93 học sinh, hiệu trưởng là thầy Ninh Văn Lịch (Thọ Lộc). Phong trào thi đua hai tốt vẫn được đẩy mạnh.

Phong trào y tế có bước phát triển mới. Trạm xá xã từng bước được cải tạo cơ sở vật chất, đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Trong những năm không quân Mỹ đánh phá miền Bắc, đội ngũ cán bộ y tế luôn sẵn sàng trực chiến, sẵn sàng đối phó nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực mà dù trong hoàn cảnh chiến tranh còn rất nhiều thiếu thốn, địa phương đã hạn chế tối đa các dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.

Thực hiện Nghị quyết của Huyện uỷ Triệu Sơn, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc vận động lớn, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Mỗi người làm việc bằng hai, vì Miền Nam ruột thịt”([33])Đoàn thanh niên đẩy mạnh phong trào 3 sẵn sàng, Hội Phụ nữ phát động phong trào 3 đảm đang, Đội Thiếu niên phát động phong trào đi tìm địa chỉ đỏ, sạch làng tốt ruộng, Hội phụ lão phát động phong trào ông trồng cháu chăm...

Trong lúc cán bộ và nhân dân Thọ Sơn, cùng với cả nước đang thu được những thành tích to lớn trên mặt trận sản xuất, chiến đấu thì ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chủ tịch, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của dân tộc và Đảng ta, danh nhân văn hóa thế giới, chiến sỹ giải phóng dân tộc qua đời. Biến đau thương thành hành động, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho chiến trường, quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, thỏa lòng mong ước của Người.

2.                       Trên mặt trận quốc phòng - an ninh

Giai đoạn 1965 - 1975 là thời kỳ công tác quốc phòng - an ninh trên địa bàn xã Thọ Sơn diễn ra đầy sôi động, lớp lớp thanh niên nối nhau ra mặt trận, với quyết tâm: “Ra đi giữ trọn lời thề/ Chưa tan giặc Mỹ chưa về quê hương”. Đồng thời cũng là thời kỳ hậu phương miền Bắc gánh chịu 2 lần đánh phá của không lực Hoa Kỳ[34]. Huyện Triệu Sơn là địa phương có nhiều tuyến giao thông trọng yếu vận chuyển lương thực, vũ khí cho chiến trường miền Nam, là nơi tập kết, cất giấu vũ khí, bộ đội đóng quân nên trở thành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, Đảng bộ Thọ Sơn nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Cấp ủy đã triển khai mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, nhân dân, không được chủ quan, lơ là mất cảnh giác. Theo chỉ đạo của xã, mỗi gia đình đào ít nhất được 2 hố cá nhân, hoặc 1 hầm trú ẩn Quảng Bình, các nơi công cộng như: công sở, trường học, trạm xá, cửa hàng mua bán… đều có hệ thống hầm, hào, ven đường có hào giao thông. Nhờ chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ, chính quyền, toàn xã đào được 1.400m hào giao thông, 812 hầm, hố cá nhân. Công tác phòng gian, bảo mật được tăng cường, toàn dân thực hiện “3 không”, (không biết, không nói, không chỉ) đề phòng bọn việt gian, phản động xâm nhập vào địa phương. Mỗi làng làm một chòi phòng không, trên có người trực suốt ngày đêm, khi có máy bay đến đánh kẻng báo động để nhân dân xuống hầm trú ẩn, khimáy bay đi đánh kẻng báo yên để tiếp tục lao động, học tập.

Trong năm 1972, không quân Mỹ đã 2 lần ném bom xuống làng Đồng Sang và trại bò làm chết nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa. Biến đau thương thành hành động, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đẩy mạnh sản xuất, tham gia phục vụ bộ đội giáng trả đích đáng lũ giặc trời. Theo chỉ đạo của huyện, toàn xã thành lập một trung đội trực chiến, có súng trường, thường xuyên luyện tập kỹ thuật bắn máy bay tầm thấp, cùng bộ đội đào đắp ụ pháo, sẵn sàng nhận nhiệm vụ theo điều động của huyện và chiến đấu khi có chiến sự xảy ra. Ngoài ra còn có đội cứu thương, đội cứu hỏa sẵn sàng ứng cứu khi có chiến sự trên địa bàn xã.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, năm 1972, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XI.Đồng chí Bùi Ngọc Chuyên được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Nghị quyết Đại hội đã nêu bật những thành tựu mà cán bộ và nhân dân xã nhà đạt được của nhiệm kỳ trước, chỉ ra những hạn chế, tồn tại cần khắc phục và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ với các nhiệm vụ chủ yếu sau: Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến và sẵn sàng cùng quân dân miền Bắc giáng trả cuộc leo tháng đánh phá miền Bắc của không lực Hoa Kỳ.

Với khi thế “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, những hạt thóc, những người con ưu tú từ quê hương Thọ Sơn theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc hối hả ra mặt trận. Người ở tiền tuyến thi đua giết giặc lập công, người ở hậu phương “chắc tay súng, vững tay cày” vừa sản xuất giỏi, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa làm tốt công tác hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Trong những năm tháng đánh Mỹ, nhân dân Thọ Sơn đã đón tiếp nhân dân về sơ tán, các đơn vị bộ đội về tập kết, huấn luyện. Đồng thời là nơi tập kết xăng dầu, vũ khí, khí tài của quân đội. Nhân dân trong xã đã nhường nhà cửa, giường chiếu, tạo điều kiện tốt nhất dành cho bộ đội với tình cảm “quân dân cá nước”. Nhiều năm liền Thọ Sơn hoàn thành vượt mức kế hoạch giao quân, đạt danh hiệu Đơn vị quyết thắng.

Hằng năm, Đảng bộ luôn tổ chức cho đảng viên học tập các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, quan tâm xây dựng chi bộ 4 tốt, gắn trách nhiệm đảng viên với việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, Đảng bộ tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 192 của Bộ Chính trị về làm trong sạch đội ngũ Đảng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Các chi bộ tiếp tục rà soát, kiểm điểm đảng viên, tổ chức cho quần chúng góp ý đảng viên, đồng thời thực hiện tốt 4 chế độ, gồm: chế độ sinh hoạt; chế độ phân công đảng viên; chế độ học tập; chế độ tự phê bình và phê bình, nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, nâng cao sức chiến đấu của đảng viên và tổ chức Đảng. 

Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong chiến công vang dội đó, Đảng bộ và nhân dân trong xã có quyền tự hào về những đóng góp của mình. Thọ Sơn đã tiễn đưa 352 thanh niên vào bộ đội, 76 đi thanh niên xung phong, 35 thanh niên đi dân công hỏa tuyến. Trong đó gần 100  người đã hiến trọn tuổi xuân của mình cho Tổ quốc. Quê hương Thọ Sơn tự hào có anh Bùi Văn Bịnh lập được chiến công lớn, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Người ở hậu phương thi đua làm việc bằng hai, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, cung cấp sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam. Với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn luôn vượt mọi khó khăn, phấn đấu, nỗ lực hết mình, xứng đáng là những người ở hậu phương lớn của tiền tuyến lớn.

Ghi nhận những đóng góp trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, góp phần cùng cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, nhiều Bằng khen và nhiều danh hiệu cao quý khác cho cán bộ và nhân dân trong xã. Đây là tài sản tinh thần vô giá sẽ song hành cùng Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn trên chặng đường cách mạng mới.

 CHƯƠNG IV

 

KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1986)

I.THỰC HIỆN KẾ HAOCHJ NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨU HAI (1976 – 1980) 

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong không khí rạo rực đón mừng chiến thắng của cả nước, Đảng bộ và nhân dân trong xã tổ chức lễ mít tinh chào mừng thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Toàn thể nhân dân tỏ rõ niềm tin tưởng, phấn khởi vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm nhanh chóng khắc phục những hậu quả của cuộc chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, giữa năm 1975, Đảng bộ tiến hành Đại hội lần thứ XII. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Sỹ Chân được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

 Đại hội biểu dương tinh thần, ý chí quyết thắng của cán bộ và nhân dân xã nhà góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân hưởng ứng chiến dịch “Na Sơn thần tốc” do Huyện ủy Triệu Sơn phát động, nhằm hoàn chỉnh công tác thủy nông, đảm bảo thu chiêm làm mùa và hoàn thành nghĩa vụ lương thực.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ và nhân dân trong xã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, đẩy mạnh cuộc thi đua “55 ngày tiến vào thời kỳ mới” do Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII phát động. Động lực của cuộc vận động này là thi đua với các điển hình tiên tiến để hoàn chỉnh thủy nông, thanh toán hết diện tích hoang hóa, làm vụ chiêm xuân và bèo hoa dâu... Mục tiêu hành động được Đảng bộ xác định là: tiến công vào mặt trận thủy lợi, nạo vét kênh mương, củng cố hồ đập, quy hoạch lại bờ vùng, bờ thửa, trên cơ sở đó từng bước hoàn chỉnh giao thông nội đồng; tiếp tục đẩy mạnh khai hoang phục hóa, huy động lực lượng thanh niên cải tạo mặt bằng những diện tích khó khăn còn để lại để đưa vào sản xuất. Củng cố hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, từng bước khẳng định vai trò của kinh tế tập thể trên cơ sở đó tiến tới kinh tế toàn dân. Để hưởng ứng phong trào trên, Huyện ủy Triệu Sơn đã phát động chiến dịch “Na Sơn đại nghĩa”, với nhiệm vụ trước mắt là tập trung mọi lực lượng sản xuất vụ chiêm xuân năm 1976.

Cùng với các nhiệm vụ trên, Đảng bộ Thọ Sơn lãnh đạo cán bộ, nhân dân trong xã thực hiện Nghị quyết số 02 - NQ/TU ngày 24 - 3 - 1976 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về "Tình hình nhiệm vụ và biện pháp thi hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24". Trong đó nêu rõ những nhiệm vụ chủ yếu là: đẩy mạnh cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp từ cơ sở, hướng các ngành kinh tế phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh thủy lợi, hoàn chỉnh thủy nông... Đồng thời Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua lập thành tích cao nhất chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Với khí thế “Na Sơn đại nghĩa”, phát huy tinh thần “trai gái Triệu Thị Trinh”, “cánh đồng Bà Triệu” thời chống Mỹ, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thời kỳ cách mạng mới với khí thế đầy hào hứng. Phong trào thủy lợi tiếp tục được đẩy mạnh với hàng ngàn mét khối đất được đào đắp trên các công trình. Đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Phát động phong trào làm phân chuồng, phân xanh, nuôi bèo hoa dâu. Khí thế thi đua lao động, sản xuất diễn ra sôi nổi rộng khắp trong các thôn, xóm.

Đầu năm 1976, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị về thăm và làm việc với cán bộ, đân dân huyện Triệu Sơn. Đồng chí căn dặn: là huyện dẫn đầu về công tác thủy nông đồng thời phải dẫn đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong lao động sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý điều hành…

Thực hiện lời dạy của đồng chí Trường Chinh, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Sơn ra quân với tinh thần “hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, đẩy mạnh phong trào “Lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục tổ chức khai hoang, phục hóa, tham gia các công trường thủy lợi của huyện, của tỉnh. Cùng với việc ra quân làm thủy lợi nội đồng, xã triển khai phong trào làm đường giao thông nông thôn thu hút hàng ngàn công lao động tham gia.

Giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa có bước phát triển mới. Giai đoạn này, dù còn khó khăn nhưng Nhà nước vẫn ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục. Học sinh đi học không phải nạp tiền học phí, sách giáo khoa mượn trong tủ sách dùng chung của trường. Từ năm học 1976 - 1977, số học sinh vào các lớp nhà trẻ, mẫu giáo, các cấp học phổ thông đều tăng. Giai đoạn này, Trường Cấp I và trường cấp 2 của xã được sáp nhập thành Trường cấp 1, 2 Thọ Sơn, do thầy Phạm Văn Sáng (Hợp Thắng làm Hiệu trưởng. Từ năm học 1979 – 1980, trường được chuyển về vị trí ngày nay trường đóng, có 10 phòng học lợp ngói, văn phòng, khu nhà ở tập thể. Trường có 22 lớp với 837 học sinh. Trên địa bàn các làng vẫn duy trì các lớp vỡ lòng, nhóm mẫu giáo. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được đẩy lên một bước, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn xã. Hoạt động văn hóa thông tin đã tập trung cổ vũ phong trào lao động sản xuất, xây dựng quê hương, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Tổ chức các buổi thi đấu thể dục thể thao, các đêm văn nghệ quần chúng chào mừng ngày bầu cử Quốc hội thống nhất, mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976, tại Thủ đô Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội ở nước ta, vạch ra đường lối kinh tế và đề ra phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, quyết định đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thắng lợi của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã mang lại niềm tin tưởng sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã đối với sự lãnh đạo của Đảng. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, đầu năm 1977, Đảng ủy tổ chức đợt nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Qua đợt sinh hoạt chính trị, trình độ nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về đường lối của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ trong cán bộ và nhân dân được nâng lên một bước, củng cố được sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng.

Từ nhận thức tinh thần của Đại hội, Đảng bộ đã đề ra phương hướng hành động cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Trong đó trọng tâm là thực hiện Chỉ thị 208 của Ban Chấp hành Trung ưởng Đảng từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Năm 1977, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XIII. Tại Đại hội này, Đảng bộ tập trung bàn biện pháp lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Huyện ủy về tổ chức lại sản xuất, cải tiến công tác quản lý nông nghiệp. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Nguyễn Sỹ Chân được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã làm phó Bí thư

Nghị quyết Đại hội nêu rõ: coi sản xuất lương thực là nhiệm vụ hàng đầu, trên cơ sở đó đẩy mạnh chăn nuôi, lâm nghiệp và ngành nghề, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp phát triển cân đối và toàn diện.

Thực hiện chỉ đạo của huyện Triệu Sơn, năm 1978, Thọ Sơn tiến hành sáp nhập các hợp tác xã nông nghiệp liên thôn hợp tác xã nông nghiệp toàn xã. Tại Đại hội xã viên lần thứ nhất, đồng chí được bầu làm Chủ nhiệm hợp tác xã. Đây là bước đi tất yếu trong quá trình đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo chủ trương của Đảng.

Đầu năm 1978, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ra Nghị quyết về phát động phong trào Định Công hóa, phấn đấu trong một thời gian ngắn tất cả các hợp tác xã đều có trình độ như Định Công. Thọ Sơn đã lần lượt cử 12 cán bộ Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã, hợp tác xã nông nghiệp và các đội sản xuất đi Định Công học tập kinh nghiệm. Trên cơ sở hướng dẫn của huyện, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua mới: “Học tập Định Công về toàn diện”[35].

Nắm vững đường lối của Đảng, Thọ Sơn tập trung củng cố các tổ chuyên trong hợp tác xã. Ngoài các đội cơ bản được chia theo đơn vị đội sản xuất, hợp tác xã còn có các đội chuyên như sau: đội giống có 12 lao động, đội chăn nuôi có 18 lao động, đội kỹ thuật 20 lao động, đội thủy lợi 202 có 45 lao động, đội ngành nghề có 34 lao động...

 Cơ sở vật chất như: xây dựng lán, kho, nhà ủ phân ở các đội, mua sắm thêm công cụ sản xuất như: máy xay sát, cày, bừa, xe kiến an, máy làm đất Bông Sen để phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, đây là giai đoạn sản xuất nông nghiệp ở gặp nhiều khó khăn, trên địa bàn cả tỉnh nạn hạn hán kéo dài gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Thọ Sơn là địa phương còn nhiều diện tích không chủ động được tưới tiêu nên tình hình còn khó khăn hơn. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, cấp ủy, chính quyền, ban chủ nhiệm hợp tác xã Thọ Sơn đã tiến hành nhiều biện pháp khắc phục khó khăn để đưa sản xuất phát triển, mạnh dạn đưa các giống lúa mới như: X1, X6, V10… có năng suất cao vào sản xuất.

Nhờ áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp mà sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn có những chuyển biến rõ rệt. Đến năm 1979, năng suất lúa đạt 4,8 tấn/ha/năm, tổng sản lượng lương thực đạt 700 tấn. Vì vậy, mặc dù thời tiết gặp nhiều khó khăn, nhưng bình quân mỗi năm, Thọ Sơn vẫn đóng góp đầy đủ nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước.

Tháng 5 năm 1980,dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XIV. Đại hội thảo luận và thông qua báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa trước, trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của xã, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện cho những năm 1980 - 1983.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 đồng chí, đồng chí Bùi Văn An được bầu làm Bí thư, đồng chí Hà Công Tý Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư.

Tình hình kinh tế xã hội thời gian này vô cùng khó khăn, sau hạn hán năm 1977, tiếp đến là nạn lụt năm 1978 và năm 1980 hàng trăm mẫu lúa ở các khu đồng trũng bị mất trắng, toàn xã bị mất trắng tới 50% diện tích, số còn lại thu hoạch không đáng kể, thóc thu được chỉ là thóc kẹ, thóc lép, dẫn đến sản lượng lương thực không đạt chỉ tiêu đề ra, các loại cây màu như: lạc, đậu, vừng... đều giảm sút, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, đời sống nhân dân rất khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng ủy đã đề ra chủ trương mở rộng diện tích vụ đông, phát triển đồi rừng và chăn nuôi để bổ sung lượng lương thực thiếu hụt.

Trại chăn nuôi được xây dựng theo mô hình mới, theo từng dãy chuồng có máng lợn ăn. Trong trại được phân chia thành khu nuôi lợn thịt, khu nuôi lợn sữathường xuyên có 12 - 15 lao động,1 cán bộ trung cấp thú y làm việc. Hằng năm, tổ chức tiêm phòng cho đàn gia cầm của tập thể và nhân dân. Ngoài việc giao trâu bò cho các hộ xã viên nuôi, hợp tác xã còn xây dựng trại chăn nôi bò ở khu đồi làng Đồng Cốc với số lượng hàng trăm con. Chính vì vậy, đàn gia súc tăng 12%, gia cầm tăng 17%, cá nuôi ước đạt 13 tấn.

Hoà chung khí thế cách mạng ở địa phương, văn hoá xã hội có bước phát triển mạnh. Một phong trào thi đua yêu nước diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân. Cùng với cả nước, nhân dân Thọ Sơn tràn đầy niềm tin tưởng và tự hào là dân của một dân tộc anh hùng đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Các phong trào thi đua liên tiếp diễn ra và thu được kết quả khả quan. Đoàn Thanh niên đẩy mạnh phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể”, Đội Thiếu niên có phong trào “Trần quốc Toản”, Hội Phụ nữ có phong trào “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”… Tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân được đề cao và nâng lên rõ rệt. Đảng bộ tập trung lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV đã đề ra với từng bước đi cụ thể phù hợp với điều kiện địa phương, trước hết là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới. Có thể nói xây dựng nền văn hoá mới, con người mới được Đảng bộ coi trọng và các tổ chức kinh tế, xã hội vận dụng linh hoạt trong nhiều các hoạt động ở địa phương. Xã viên được giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, coi “hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, lẽ sống “mình vì mọi người” thường xuyên nhắc nhở được hội viên, đoàn viên... coi đó là mục tiêu phấn đấu, trở thành tiêu chí thi đua của các đoàn thể, những gương người tốt việc tốt được biểu dương kịp thời, tạo không khí thi đua sôi nổi ở làng quê.

Các hủ tục lạc hậu như: chè chén tốn kém trong cưới xin, ma chay được vận động bãi bỏ. Thanh niên thực hiện tổ chức cưới văn minh tiết kiệm, đám cưới do Đoàn Thanh niên đứng ra tổ chức tại hội trường, không ăn uống linh đình tốn kém, cô dâu, chú rễ “vui duyên mới không quên nhiệm vụ mới’. Công tác thông tin, tuyên truyền được coi trọng, địa phương xây dựng thư viện phục vụ đông đảo nhân dân trong xã, các loại báo, tạp chí cho các chi bộ, tổ chức đoàn thể được chuyển về kịp thời.

So với giai đoạn trước, giai đoạn này chất lượng dạy và học được nâng lên, số học sinh lên lớp và tốt nghiệp năm sau đều cao hơn năm trước. Năm 1977, Thọ Sơn thành lập trường vừa học vừa làm của xã nhằm hoàn thành chương trình cấp 2 cho thanh niên trong xã. Học viên mỗi tuần học 3 buổi, các buổi khác đi làm như một đội chuyên. Giáo viên là những người học xong chương trình cấp 3, vừa dạy học, vừa đi làm cùng học viên, được hợp tác xã tính công điểm để nhận thóc. Mô hình trường vừa học, vừa làm đã góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho thanh niên trong xã.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có tiến bộ, nhất là công tác vệ sinh phòng bệnh. Trạm xá xã được xây dựng mới, đội ngũ thầy thuốc được đi tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ. Cán bộ y tế đến từng gia đình vận động nhân dân thực hiện phong trào “3 dứt điểm”, xây dựng các công trình: giếng nước, nhà tắm và nhà tiêu 2 ngăn, sinh đẻ có kế hoạch...

Nhiệm vụ quốc phòng an ninh được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo. Đảng ủy đã chỉ đạo củng cố đội dân quân, xây dựng trung đội mạnh, đăng ký quân dự bị. Từ giữa năm 1977, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam xảy ra, tiếp đó “ngày ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc vô cớ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Quân đội và nhân dân Việt Nam, mà trực tiếp là quân dân 6 tỉnh phía Bắc buộc phải chiến đấu tự vệ và chiến đấu ngoan cường để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, độc lập của Tổ quốc”[36]. Theo lời lệnh “tổng động viên” của Chủ tịch nước, lớp lớp thanh niên trong xã xung phong lên đường ra mặt trận, có những người mới rời quân ngũ chưa được bao lâu đã sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ. Đảng ủy, chính quyền tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Nhân dân được phổ biến phương án sơ tán, chuẩn bị hậu cần để đối phó với tình huống xấu quân Trung Quốc đánh vào địa phương. Chủ trương xây dựng huyện thành pháo đài chính trị, làng xã chiến đấu của Tư lệnh Quân khu IV được địa phương thực hiện nghiêm túc, sẵn sàng giáng trả nếu kẻ địch liều lĩnh mở rộng chiến tranh đến địa phương.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, nhân dân trong xã tiễn đưa hàng trăm người con lên đường nhập ngũ, trong đó có hàng trăm người đã anh dũng hy sinh tuổi xuân, hay một phần xương máu của mình để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, thời gian này, mỗi đội sản xuất có 1 chi bộ. Đảng ủy triển khai thực hiện Chỉ thị 72, Nghị quyết 195 của Ban Chấp hành Trung ương về phát thẻ đảng viên. Qua 3 lần phát thẻ đảng có 98,7% đảng viên trong Đảng bộ đã được nhận thẻ, thông qua việc phát thẻ Đảng, uy tín của cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Hàng năm, Đảng bộ triển khai phân loại tổ chức Đảng, đảng viên nghiêm túc, số chi bộ đạt vững mạnh mỗi năm một tăng, tỉ lệ đảng viên loại I được đạt trên 70%.

Sau 5 năm nỗ lực phấn đấu, với bao khó khăn do thời tiết gây ra, sản xuất còn lạc hậu, xuất phát điểm từ một nền kinh tế thấp... Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Sơn đã từng bước tháo gỡ khó khăn, thu được những kết quả hết sức phấn khởi. Đời sống nhân dân tuy chưa cao nhưng dần đi vào ổn định, các tổ chức quần chúng đã được kiện toàn, thu hút ngày càng đông đoàn viên, hội viên tham gia. Những kết quả bước đầu đạt được có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Đảng bộ trong thời gian này, tạo niềm tin cho nhân dân trong xã trên chặng đường đi tới.

II. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨU BA (1981 – 1985).

Bước vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội giai đoạn 1981 - 1985, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn được tiếp thêm sức mạnh mới. Những kết quả đạt được trong những năm đầu khi nước nhà thống nhất tuy khiêm tốn nhưng đã chứng tỏ tinh thần sáng tạo, vượt lên gian khó của Đảng bộ và nhân dân trong xã.

Tuy nhiên, giai đoạn này sản xuất nông nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trên mặt trận phân phối lưu thông có nhiều rối ren. Tình trạng thiếu thốn về vật tư, tiền vốn, nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm diễn ra trầm trọng, cán bộ, công nhân viên chức, những người hưởng lương phải nghỉ tự túc tự lo lương thực, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.

Trước tình hình trên, tháng 8 năm 1979, tại Hội nghị Trung ương sáu, bàn về công nghiệp và hàng tiêu dùng địa phương, những vấn đề cấp bách về kinh tế, đời sống, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra biện pháp cấp bách về kinh tế và đời sống. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế “làm cho sản xuất bung ra” theo phương hướng, kế hoạch của Nhà nước. “Phải xóa bỏ ngay những chính sách kinh tế đã lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế sản xuất và đời sống. Các chính sách mới phải kết hợp chặt chẽ lợi ích Nhà nước với lợi ích tập thể và lợi ích người lao động, nhằm khuyến khích mọi người hăng hái sản xuất”[37]. Hội nghị này mở đầu cho quá trình đổi mới của Đảng ta tuy chưa cơ bản và toàn diện.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu, ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (thường gọi tắt là Chỉ thị 100 hay khoán 100). Chỉ thị 100 thể hiện sự đổi mới tư duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã.

Năm 1982, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XV. Sau khi thảo luận Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa trước trình trước Đại hội, Đại hội đã tập trung bàn biện pháp thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đảng bộ xác định, khi thực hiện khoán 100 phải đạt được mục đích: đảm bảo phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn mọi người hăng hái lao động, kích thích nâng cao năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai và các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có; áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất; củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn; không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên, tích lũy của hợp tác xã, làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước.

Phương hướng chủ yếu để cải tiến công tác khoán trong hợp tác xã nông nghiệp là: khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất, thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng.

Đại hội thông qua Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ trong những năm 1982 - 1985 và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí. Đồng chí Bùi Sỹ An được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Doãn Mơ Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư.

Sau Đại hội Đảng bộ, Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện Chỉ thị 100, đồng thời chỉ đạo hợp tác xã tập huấn cho ban chỉ huy các đội sản xuất tổ chức thực hiện phương án khoán cho các hộ xã viên.

Khoán 100 ra đời đã tạo nên khí thế thi đua sản xuất sôi nổi ở khắp làng quê Thọ Sơn, phát huy được tính tích cực, tự giác của xã viên, lôi cuốn mọi người tăng thêm công sức, chủ động tận dụng đất đai, phân bón, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, sản lượng thu hoạch và nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của xã viên, tăng tích lũy của hợp tác xã và tạo điều kiện cho hợp tác xã thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nông sản đối với Nhà nước. Một phong trào vượt khoán diễn ra mạnh mẽ, làng trên, xóm dưới đâu đâu cũng bàn đến khoán sản phẩm, không còn cảnh đi làm kiểu tối ngày đầy công như trước đây. Đảng ủy phân công các đồng chí trong Ban Chấp hành phụ trách từng đơn vị, các đồng chí trong Ban Chủ nhiệm hợp tác xã được phân công khâu nào phải thường xuyên báo cáo kịp thời với Ban Chủ nhiệm, tìm cách tháo gỡ khó khăn để sản xuất phát triển.

Tính đến thời điểm đó, chưa có hình thức kinh tế nào khi xuất hiện lại được nhiều người hưởng ứng rộng rãi và nhanh chóng biến thành một phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút đông đảo nông dân tham gia như hình thức khoán 100. Với hình thức khoán này, xã viên đảm nhiệm 3 khâu: cấy, chăm sóc, thu hoạch, hợp tác xã đảm nhận 5 khâu: giống, làm đất, phân bón, bảo vệ thực vật và thủy nông, nếu vượt khoán thì xã viên được hưởng. Vì thế, đã phát huy được tính tích cực của người lao động, xã viên và các đội sản xuất hăng hái nhận ruộng khoán. Đồng thời hợp tác xã khuyến khích xã viên khai hoang, cho miễn thuế từ 3 đến 5 năm. Với chủ trương này, xã viên đã tích cực hưởng ứng, khắp các xứ đồng, chỗ nào còn bỏ rậm bà con đều tìm mọi cách khai hoang và đưa vào sản xuất. Ngoài ra, hợp tác xã phát động xã viên nhận ruộng nuôi lợn gia công theo hình thức, hợp tác xã lo giống, cứ 1 kg lợn hơi người nuôi được 5 kg thóc, phát triển thêm đàn trâu bò cày kéo...

Cơ chế khoán mới theo Chỉ thị 100 bước đầu đã khơi dậy tiềm năng và sức lao động, sáng tạo của hộ xã viên tạo động lực thúc đẩy sản xuất và các hoạt động của xã phát triển.

Kết quả, các vụ sản xuất trong 2 năm 1981- 1982 nhân dân đã khai hoang thêm hàng chục mẫu ruộng ở các xứ đồng đưa vào sản xuất. Năng suất lúa, màu đều tăng 150% so với năm 1980, sản lượng lương thực quy thóc tăng 57,8%. Hầu hết các hộ nhận khoán đều vượt sản, số hộ vượt trên 3 tạ mỗi vụ tương đối nhiều, điển hình là các thôn: Làng Pheo, làng Bứa, Bái Đề, Ngô Công… Sản xuất lương thực phát triển tạo điều kiện để đẩy mạnh chăn nuôi. Số đầu lợn trong gia đình xã viên tăng lên, trại lợn của hợp tác xã chỉ giữ lại lợn nái sinh sản và một số lợn thịt; chăn nuôi trâu bò tăng đáng kể so với những năm trước đây; nuôi cá phát triển mạnh, bà con tận dụng những ao, hồ tăng diện tích nuôi cá làm thực phẩm. Nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước hằng năm đều đạt trên 200 tấn.

Việc thực hiện cơ chế khoán theo Chỉ thị 100 đã phần nào giải tỏa được những khó khăn về nạn thiếu lương thực, tạo không khí phấn khởi trong nông dân, mở ra triển vọng mới cho việc phát triển kinh tế ở địa phương, dù chưa vững chắc.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, từ vụ Đông Xuân năm 1982 - 1983, Đảng ủy tăng cường chỉ đạo hợp tác xã chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chọn những giống lúa có năng suất cao, phù hợp với từng đồng đất, mùa vụ đưa vào sản xuất; khuyến khích các hộ phát triển kinh tế vườn đồi theo mô hình kinh tế VACR (Vườn - Ao - Chuồng - Rừng); động viên các hộ xã viên tăng cường phát triển kinh tế hộ gia đình để tăng thu nhập, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi.

Đánh giá tình hình kinh tế, xã hội thời gian qua, Đảng bộ nhận thấy: nhờ thực hiện tốt công tác khoán mới, sản xuất nông nghiệp trong xã có bước tiến mạnh, vấn đề lương thực trong dân bước đầu được giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trên, công tác khoán trên địa bàn xã đã xuất hiện những bất cập mới, như: một số cán bộ chưa sâu sát trong việc chỉ đạo sản xuất, nhất là chỉ đạo cơ cấu giống, xuất hiện tình trạng khoán trắng, một số hộ dân chưa có kế hoạch đầu tư thâm canh nên năng suất thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn.

Tuy vậy, giai đoạn này sản xuất gặp nhiều khó khăn do hạn hán, bão lụt liên tiếp xảy ra. Năm 1983, vụ chiêm xuân hạn nặng, vụ mùa lại bị bão lụt làm nhập úng trên 38% diện tích gieo cấy. Vụ chiêm xuân năm 1984 rét đậm kéo dài làm mạ và lúa mới cây (chủ yếu là giống mới) chết hàng loạt, địa phương đã phải dặm, cấy lại trên 30% diện tích gieo cấy. Qua mấy năm thực hiện hiệu quả, Chỉ thị 100 đã bộc lộ những bất cập, nhiều hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và phân phối, như: tập thể khoán trắng cho xã viên, buông lỏng công tác quản lý, chỉ đạo, rong công, phóng điểm, mức sản tăng lên quá cao khiến thu nhập của xã viên bị giảm sút, nợ đọng sản phẩm, nhiều người không còn thiết tha với ruộng khoán... Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các địa phương trong tỉnh, trong đó có xã Thọ Sơn.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, năm 1984, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIđược tổ chức. Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những khó khăn, thuận lợi, những việc đã làm được và những khiếm khuyết của Đảng bộ, chính quyền xã trong nhiệm kỳ vừa qua. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên, Đại hội xác định ưu tiên phát triển kinh tế nông nghiệp, từng bước hoàn thiện công tác khoán mới.

Đại hội đã bầu ra ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Bùi Văn An được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu làm Phó Bí thư.

Sau Đại hội, Thọ Sơn tập trung thực hiện Chỉ thị số 02-CT/TU của Ban Chấp hành Tỉnh ủy Thanh Hóa và hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn về sửa chữa lệch lạc trong thực hiện Chỉ thị 100.

Đảng ủy đã tổ chức hội nghị sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 100, qua đó chỉ đạo hợp tác xã sửa chữa những sai lệch trong quá trình thực hiện Chỉ thị 100, như: khắc phục tình trạng giao ruộng manh mún; xác định lại sản lượng, trường hợp thiên tai gây thiệt hại, cấp ủy chi bộ, đội sản xuất báo cáo để hợp tác xã xem xét miễn giảm hợp lý; tổ chức, điều chỉnh một số khâu công việc khoán; chấn chỉnh việc xã viên nạp đầy đủ sản cho hợp tác xã...

Do làm thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 02 của Tỉnh ủy, thời tiết lại thuận lợi, nên 2 năm 1984, 1985 sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn được mùa. Năng suất, sản lượng lúa, màu đều tăng hơn năm trước, bình quân đạt trên 5,6ha/năm. Mức lương thực bình quân được tăng lên, nhiều hộ nông dân có thóc dự trữ cho vụ sau, nạn đói giáp hạt giảm dần. Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt gần 900 tấn, nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước đạt 220 tấn, 27 tấn lợn hơi. Hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng đều chủ động trong kinh doanh, phát huy vai trò phục vụ đời sống và sản xuất của nhân dân.

Lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Thực hiện Quyết định số 15-CP ngày 27 - 3 - 1981 về hệ thống giáo dục phổ thông mới, Trường Cấp 1, 2 Thọ Sơn được đổi tên thành Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn, do thầy Nguyễn Văn Giai làm hiệu trưởng. Trường tiến hành cải cách giáo dục lần thứ 3, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 12 năm, xóa lớp vỡ lòng ở các thôn bản. Dù còn khó khăn, địa phương vẫn quan tâm đầu tư cơ sở vật chất trường học, giảm dần tình trạng học 3 ca[38]. Chất lượng học được nâng lên rõ rệt qua từng năm học: năm học 1984 - 1985, tỷ lệ học sinh vượt cấp khối cấp I đạt 95%, tỷ lệ tốt nghiệp khối cấp II đạt 90%. Nhiều năm, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn đạt danh hiệu trường tiến tiến cấp huyện.

Về y tế, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vệ sinh phòng dịch được quan tâm. Với tinh thần phục vụ nhân dân, cán bộ trạm xá xã đã luôn tận tụy, trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Hằng năm trạm đều tổ chức khám, chữa bệnh cho nhân dân, mở các đợt tuyên truyền vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, ăn chín uống sôi, ngủ màn. Đặc biệt công tác kế hoạch hóa gia đình, với mục tiêu giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Hằng năm xã đều tổ chức ngày hội hạnh phúc, tăng cường vận động chị em dùng các biện pháp tránh thai. Nhờ làm tốt công tác này, Triệu Sơn được tặng lẳng hoa Bác Tôn, thành tích trên có sự đóng góp của cán bộ và nhân dân xã Thọ Sơn.

Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, được Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã thường xuyên quan tâm xây dựng. Đảng ủy có Nghị quyết chuyên đề về công tác này. Giai đoạn này, dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế chúng vẫn chiếm đóng nhiều địa điểm trọng yếu về quân sự của nước ta. Nhiều trận đánh lớn chống bọn xâm lược Trung Quốc vẫn nổ ra. Trong thư gửi chiến sỹ, đồng bào cả nước Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã kêu gọi chiến sỹ, đồng bào cần nêu cao cảnh giác, vì kẻ địch còn ngoan cố và tiếp tục gây thêm nhiều tội ác mới[39]. Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ, luôn quan tâm giáo dục, động viên thanh niên nhận thức sâu sắc trách nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Năm 1984, cán bộ và nhân dân trong xã tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Hướng về biên giới”, nhân dân trong xã đóng góp ủng hộ các chiến sỹ nơi biên giới, hải đảo, bố trí việc làm cho những người hoàn thành nhiệm vụ trở về. Đồng thời Đảng bộ đã chỉ đạo hoàn thành các đợt tuyển quân hàng năm đảm bảo chất lượng và số lượng.

Đội ngũ công an xã, thôn được củng cố. Toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác quyết giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Đảng bộ luôn coi trọng công tác cán bộ, đảm bảo đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới. Thời gian này, Đảng bộ tiếp tục tổ chức phát thẻ Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu sắc trong toàn Đảng bộ, là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh.

Đảng ủy coi trọng công tác đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết, công tác bồi dưỡng cán bộ và phát triển Đảng. Từ đó có hướng chuẩn bị nhân sự cho những nhiệm kỳ tiếp theo, kịp thời giáo dục, kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, tạo lòng tin trong quần chúng nhân dân.

Mười năm (1975 - 1985) Đảng bộ Thọ Sơn lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn: hậu quả chiến tranh để lại vô cùng nặng nề, thời tiết diễn biến bất thường, bão lụt liên tiếp xảy ra, chính sách bao vây cấm vận của kẻ địch gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, bọn phản động Pôn Pốt, bọn bành trướng Bắc Kinh liên tiếp gây ra các cuộc chiến tranh biên giới... Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Sơn đã đoàn kết, vững tin vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Đặc biệt, từ khi có Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn có sự khởi sắc. Văn hóa, xã hội có nhiều đổi mới, việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội thu được kết quả bước đầu. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, Thọ Sơn đã cùng với quân và dân cả nước đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới do bọn phản động quốc tế phát động, giữ vững độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ. Qua thực tế lãnh đạo và tổ chức thực hiện, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong xã ngày càng vững mạnh, đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo quần chúng thực hiện các phong trào cách mạng ở địa phương. Đó là hành trang qúy để cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục sự nghiệp cách mạng trên chặng đường mới. 

Chư­ơng V

   TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1986 – 2019)

            I.MƯỜI NĂM ĐẦU TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNG ĐAO ( 1986 – 1995)

            1. Thực hiện công cuộc đổi mới giai đoạn 1986 - 1990)

Trong thời kỳ 1976 - 1985, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thu được một số thành tựu đáng kể. Chúng ta đã thiết lập được hệ thống chuyên chính vô sản trên phạm vi cả nước. Từ đó, tạo ra sức mạnh chung, giành được thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, thời kỳ này có không ít khó khăn và những sai lầm, khuyết điểm. “Những chủ trương nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh công nghiệp hóa khi chưa đủ điều kiện cần thiết; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế… đã gây thêm khó khăn cho đời sống kinh tế - xã hội nước ta”[40].

Từ giữa những năm tám mươi của thế kỷ trước, nước ta đứng trước những thử thách nghiêm trọng, những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, sản xuất đình trệ. Những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân không đủ đáp ứng, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nước ta thật sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trong hoàn cảnh đó, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần, dân chủ, đổi mới, Đại hội đã tiến hành đánh giá tình hình phát triển của đất nước trong thời gian qua và đưa ra phương hướng phát triển đất nước trong thời kỳ tới. Đại hội xác định: “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[41].

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thổi một luồng gió mới vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quán triệt và thực hiện nghị quyết Đại hội, Đảng bộ xã Thọ Sơn đã tổ chức học tập trong toàn Đảng bộ và phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Từ đây, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào một giai đoạn cách mạng mới, tiến hành công cuộc đổi mới.

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện đường lối của Đảng trong điều kiện hết sức khó khăn. Về chủ quan, đất nước ta đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát tăng 3 con số, phân phối lưu thông gặp nhiều rối ren… Về chủ quan: sau 10 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, địa phương đã thu được những kết quả khích lệ. Từ khi thực hiện khoán 100, vấn đề lương thực đỡ gay gắt hơn. Tuy nhiên, nhìn chung kinh tế - xã hội vẫn còn vô vàn khó khăn, tỷ lệ hộ thiếu đói còn cao, nay đang có nguy cơ gia tăng, khoán 100 đã bộc lộ những mặt hạn chế làm cho sản xuất nông nghiệp có phần chững lại. Văn hóa- xã hội ngày càng xuất hiện những bất cập mới…

Đứng trước những khó khăn, thử thách, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vượt qua khó khăn để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, quê hương ngày thêm đổi mới. Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội những năm tiếp theo, Đảng bộ tiến hành kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đề ra những nhiệm vụ cụ thể phát triển kinh tế xã hội phù hợp với thực tế địa phương.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, giữa năm 1986, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIIđược tổ chức. Đại hội thông qua bản góp ý vào văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, nghiêm túc đánh giá, những khó khăn thuận lợi, những việc đã làm được và những khiếm khuyết của Đảng bộ, chính quyền xã trong nhiệm kỳ vừa qua. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên, đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phòng - an ninh của xã nhà trong thời gian tới. Đồng thời xác định: phát triển kinh tế là ưu tiên số một, sản xuất nông nghiệp là đòn bẩy để phát triển kinh tế địa phương. Vì vậy, ngoài cây lúa là chủ lực thì cây màu, vụ đông, chăn nuôi, ngành nghề, trồng rừng cũng được coi trọng.

Đại hội đã bầu ra ban chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Bùi Văn Anh  được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu lại làm Phó Bí thư.

Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những hạn chế, tồn tại của một thời kỳ dài trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, mặt khác phải đổi mới tư duy, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống. Thực hiện nghị quyết của Đại hội hợp tác xã nông nghiệp, ban chủ nhiệm đã tập trung đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích, thâm canh gối vụ, đưa giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.

Sau Đại hội, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đại hội đề ra. Trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đã thu được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, những bất cập từ khoán 100 đã kìm hãm sản xuất, đặc biệt là do mức sản điều chỉnh tăng dần nên nhân dân không còn thiết tha với ruộng đồng, nợ sản ngày càng nhiều. Toàn xã có tới hơn 45% hộ nợ sản. Đây cũng là tình trạng chung của sản xuất nông nghiệp của nước ta giai đoạn này.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn việc thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về việc đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Có thể nói đây là nghị quyết cụ thể hóa đường lối đổi mới nông nhiệp, nông thôn Việt Nam.

Đảng bộ đã có nhiều cuộc họp quán triệt tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Chỉ thị 15 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn về thực hiện đổi mới trong công tác quản lý kinh tế nông nghiệp ở địa phương, chủ trương:

Tiến hành khoán mới phải kết hợp với việc sắp xếp lại sản xuất, chấn chỉnh tổ chức, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp.

Kết hợp sản xuất nông nghiệp với việc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức đoàn thể.

Đảng ủy đã triệu tập hội nghị mở rộng bao gồm: Đảng ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ban Chủ nhiệm hợp tác xã, cán bộ các đội sản xuất. Trên cơ sở, các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, hội nghị quyết định chia đất canh tác thành 3 loại:

- Đất phần trăm phục vụ cho chăn nuôi gia đình.

- Đất cơ bản nhằm đảm bảo lương thực cho nhân dân.

- Đất đấu thầu nhằm phát huy những gia đình có điều kiện thâm canh và là đất dự trữ để cấp tiếp khẩu phát sinh.

Đối tượng xét chia đất có 2 loại: khẩu phần cứng là những hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp; khẩu phần mềm là những người có hộ khẩu trên địa bàn, con cái cán bộ công chức nhà nước trên địa bàn xã, hưu trí nhà nước. Các hộ chính sách, già cả neo đơn được ưu tiên nhận ruộng tốt.

Những hộ có điều kiện sản xuất, vật tư, tiền vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất tốt, không nợ sản, được nhận thêm đất đấu thầu để tạo sản phẩm cho xã hội.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, hợp tác xã nông nghiệp đã tiến hành đấu giá, bán trâu bò, nông cụ cho xã viên, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để các hộ mua thêm trâu bò đảm bảo sức kéo, tăng lượng phân chuồng phục vụ thâm canh tăng năng suất cây trồng.

Cuối năm 1988, việc giao đất theo tinh thần Nghị quyết 10 trên địa bàn xã Thọ Sơn đã được hoàn thành. Nhân dân trong xã phấn khởi, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Từ đây, quyền lợi của người nhận ruộng được đảm bảo hơn, người dân được làm chủ mảnh ruộng của mình, mọi người hăng hái tăng gia sản xuất, các hộ gia đình đầu tư thâm canh nâng cao năng suất.

Tháng 5 năm 1988, Đại  hội Đại biểu Đảng bộ Thọ Sơn lần thứ XVIII được tổ chức tại hội trường xã. Đại hội đã bầu lại đồng chí Bùi Văn An làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư. Về phương hướng phát triển kinh tế của địa phương, Đại hội tập trung bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện cả lúa và màu, cả trồng trọt và chăn nuôi, coi trọng phát triển rừng, từng bước đưa vụ đông thành vụ sản xuất chính.

Nhờ có những biện pháp chỉ đạo tích cực, năng suất lúa không ngừng được nâng cao. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, vụ đông được xác định là vụ sản xuất chính. Cơ cấu cây trồng vụ đông cũng thay đổi tích cực, ngoài những cây trồng truyền thống như: khoai lang, ngô, rau màu thì cây ngô lai được đưa vào trồng trên diện tích lớn, phục vụ nhu cầu lương thực và chăn nuôi. Bên cạnh diện tích trồng màu trên đồng cao, đồi rừng, diện tích vụ đông của xã không ngừng tăng lên.

Bên cạnh việc tăng diện tích, năng suất cây trồng, chăn nuôi cũng được Đảng bộ quan tâm sát sao, từ chỗ chăn nuôi tập trung là chính, nay chuyển sang chăn nuôi hộ cá thể. Bởi vậy gia súc, gia cầm trong xã tăng nhanh cả về số lượng lẫn khối lượng.

Có thể nói, khoán 10 ra đời như làn gió mới thổi vào làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Thọ Sơn. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên, văn hóa - xã hội phát triển, làng quê đổi mới từng ngày, mọi người phấn khởi càng thêm tin tưởng vào Đảng, vào công cuộc đổi mới.

Những thắng lợi của Nghị quyết 10 trên quê hương Thọ Sơn đã góp phần khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo, khẳng định sự đoàn kết, nhạy bén sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân xã nhà.

Trên cơ sở những thắng lợi của Nghị quyết 10, Đảng bộ đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, tiến hành đổi mới toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc biệt là tập trung hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác khoán 10. Kiện toàn sắp xếp lại các ban ngành, đoàn thể trong xã, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội Đảng bộ đề ra.

Mặc dù đời sống nhân dân đã được cải thiện, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tình trạng người dân thiếu ăn lúc giáp hạt vẫn còn. Văn hóa xã hội có nhiều khởi sắc, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới. Trước đòi hỏi từ thực tế, trên cơ sở những nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, Đảng ủy đã chủ trương tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới cụ thể, sâu rộng hơn nữa, uốn nắn, khắc phục những lệch lạc phát sinh trong quá trình triển khai, thực hiện 3 chương trình kinh tế vận động theo kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Đời sống nhân dân trong xã được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy, lòng tin của nhân dân được củng cố, quốc phòng an ninh được giữ vững...

Xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội, từ năm 1986 đến 1990, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời có những chủ trương cụ thể sát thực với tình hình thực tiễn ở địa phương để phát triển ngành nghề, chăn nuôi, trồng và bảo vệ rừng. Trong chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ luôn quán triệt chủ trương: phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân, có sự điều hành của tập thể nhằm huy động tiềm lực trong dân cho sản xuất.

Công cuộc đổi mới, mà cụ thể là khoán 10 ra đời đã tạo luồng sinh khí mới trên quê hương Thọ Sơn. Năng suất, sản lượng không ngừng nâng lên. Năm 1986, tổng sản lượng lương thực toàn xã đạt 1.112 tấn, đến năm 1990, tăng lên 1.287 tấn. Bên cạnh hai vụ lúa, sản xuất màu giai đoạn này đã có bước phát triển mới, cuối nhiệm kỳ, diện tích màu đạt 90ha, sản lượng đạt 321 tấn.

Sản xuất phát triển, vốn tích lũy trong dân ngày một tăng, nhân dân đã chủ động, mạnh dạn đầu tư, thâm canh, nông cụ ngày một cải tiến, cơ khí dần thay thế thủ công. Trong xã đã có nhiều hộ mua công nông, máy xay sát, máy nghiền thức ăn gia súc...

Chăn nuôi hộ gia đình phát triển rất mạnh, đặc biệt là chăn nuôi gia súc như: lợn, bò. Ngoài ra, nhiều hộ tham gia nuôi lợn gia công, hợp tác xã cung ứng con giống, sau khi xuất chuồng bán lại cho hợp tác xã, trừ khối lượng ban đầu phần còn lại xã viên được nhận bằng tiền mặt hoặc bằng thóc. Phong trào nuôi lợn gia công đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho bà con. Các năm về sau, khi nền kinh tế hàng hóa dần hình thành thì nhà nhà nuôi lợn, người người nuôi lợn, không chỉ bà con nông dân nuôi lợn mà cán bộ nhà nước cũng tham gia nuôi lợn. Có thể nói giai đoạn này số lượng cũng như sản lượng đàn lợn tăng nhanh. Đàn trâu bò phát triển mạnh, nhất là sau khi hợp tác xã bán lại cho các hộ xã viên, năm 1990 số trâu bò đã tăng 15%, đàn lợn tăng 21% so với năm 1986. Với diện tích mặt nước lớn Thọ Sơn có điều kiện phát triển nuôi cá nước ngọt, mỗi năm cho sản lượng trên 12 tấn cá.

Để đạt được kết quả cao trong sản suất nông nghiệp, công tác thủy lợi đóng vai trò quyết định. Hằng năm sau các vụ thu hoạch, nhất là mùa khô, Đảng ủy đã ra những nghị quyết huy động hàng ngàn ngày công để nạo vét kênh mương, mỗi năm đào đắp được hàng ngàn mét khối đất, nhằm hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa, mương tưới, mương tiêu, các tuyến giao thông nội đồng ...

Thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, bên cạnh đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Thọ Sơn chú trọng phát triển các nghề thủ công như: đan lát, mộc, nề… Đồng thời mở rộng diện tích cây trồng có khả năng suất khẩu như: lạc, đay, ớt, lúa nếp… Năm 1990, thu nhập từ ngành nghề, dịch vụ tăng 27,5% so với năm 1986.

Giai đoạn này đời sống giáo viên các trường gặp nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục xuống thấp, tỷ lệ học sinh bỏ học cao. Trong hoàn cảnh giáo viên nhiều nơi trên toàn quốc bỏ nghề, nhưng thầy và trò trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn vẫn nêu cao khẩu hiệu “Thi đua dạy tốt, học tốt”. Tuy đời sống khó khăn, phòng học, bàn ghế thiếu thốn, nhưng tập thể giáo viên vẫn bám trường, bám lớp, động viên con em đến trường. Giai đoạn này, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn có 14 lớp, với 768 học sinh. Hàng năm, tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp luôn đạt 85 - 90%. Công tác xóa mù chữ được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo, Đảng ủy đã chỉ đạo thành lập Ban xóa mù chữ xã. Đầu năm 1990, Thọ Sơn triển khai chương trình P08 lồng ghép nhà trẻ với mẫu giáo, đây là những bước đi ban đầu để tiến tới thành lập trường Mầm non xã sau này.

Trạm y tế xã đã làm tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân, đặc biệt là công tác tiêm phòng cho trẻ em theo chương trình FBI do quốc tế tài trợ, toàn xã đã có gần 95,2% cháu được tiêm đủ 6 mũi vắc xin: bại liệt, uốn ván, ho gà, lao, bạch hầu, sởi. Trạm y tế đã phối hợp chặt chẽ với Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã làm tốt công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình, tỉ lệ sinh con thứ ba giảm mạnh. Tỉ lệ sinh tự giảm xuống còn 1,7% năm 1990. Công tác vệ sinh phòng dịch luôn được phát động như: ăn uống hợp vệ sinh, dọn dẹp đường làng ngõ xóm, xây nhà tiêu, chuồng trại hợp vệ sinh...

Trong 5 năm 1986 - 1990, mặc dù trên thế giới có những diễn biến phức tạp tác động xấu đến tình hình nước ta, nhưng quốc phòng - an ninh trên địa bàn xã vẫn đảm bảo ổn định. Để nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của kẻ thù, Đảng ủy luôn chỉ đạo dân quân tự vệ trong xã thường xuyên luyện tập, hàng năm tham gia diễn tập bắn đạn thật đạt kết quả cao. Năm 1989, Đảng ủy đã triển khai kế hoạch TH.89.02 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, đã quán triệt:

- Tăng cường lực lượng dự bị động viên, xây dựng làng xã chiến đấu.

- Thành lập và củng cố 1 đại đội, 2 trung đội dân quân tự vệ, 1 trung đội quân dự bị động viên luyện tập thường xuyên, chuẩn bị tham gia diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

- Nắm bắt, theo dõi những phần tử xấu, lưu manh, trộm cắp... để đề phòng và có kế hoạch đối phó.

Cũng thời gian này, cấp ủy, chính quyền xã Thọ Sơn tập trung chỉ đạo, thực hiện Chỉ thị 56/CT của Hội đồng Bộ trưởng về việc “xây dựng tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc”. Qua đợt triển khai này, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị động viên tăng lên rất cao, toàn Đảng, toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu của kẻ thù.

Công tác động viên thanh niên lên đường nhập ngũ luôn được Đảng ủy chỉ đạo sát sao. Hằng năm, xã luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu giao quân, với số lượng từ 9 - 12 người.

Năm 1987, thực hiện chỉ thị của cấp trên, Đảng bộ đã chỉ đạo ban công an xã, cùng các ban ngành tiến hành chiến dịch vận động thu hồi chất nổ, dao găm và các loại vũ khí khác. Kết quả người dân đã tự giác giao nộp 217 loại vũ khí như: dao găm, giáo, mác...

Năm 1989, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân triển khai Quyết định 195 của Hội đồng Bộ trưởng, Chỉ thị 17 của Bộ Nội vụ, Chỉ thị 19 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, mở chiến dịch KHZ về tấn công, trấn áp tội phạm. Thọ Sơn đã thành lập ban chỉ đạo do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm trưởng ban. Ban công an xã sẵn sàng trấn áp kịp thời những hành động gây mất trật tự an ninh, bảo vệ tốt mùa màng, tài sản của nhân dân, giải quyết dứt điểm những vụ việc tiêu cực xảy ra trên địa bàn xã.

Đây là giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta, nhiệm vụ củng cố, xây dựng tổ chức đảng được đặc biệt coi trọng. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, các năm 1989, 1990, Đảng bộ đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về công tác kiểm tra Đảng. Đặc biệt là Nghị quyết 24 của Tỉnh ủy về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy Nhà nước. Qua đợt học tập nghị quyết, Đảng bộ đã nghiêm túc đánh giá, thẳng thắn phê bình, đấu tranh với những tư tưởng hữu khuynh, giảm sức chiến đấu, vi phạm Điều lệ Đảng. Trong dịp này, Đảng bộ tiến hành kỷ luật 12 đảng viên, đưa những đảng viên sa sút về phẩm chất, ý chí ra khỏi Đảng. Qua triển khai Nghị quyết 24, sức chiến đấu và ý thức đảng viên trong Đảng bộ nâng lên rõ rệt, các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể thêm vững mạnh.

Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện mục tiêu Đại hội đề ra hòa chung công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng. Trên bước đường đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã gặp biết bao khó khăn, thử thách, nhưng với bản lĩnh kiên cường của những người Cộng sản, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn để giành được những thành công quan trọng. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 10-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã làm thay đổi căn bản sản xuất nông nghiệp và diện mạo nông thôn Thọ Sơn, khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới, khẳng định sự nhạy bén, năng động của Đảng bộ. Đó chính là động lực, là niềm tin để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững bước tiến lên trong công cuộc đổi mới.

2. Tiếp tục công cuộc thực hiện công cuộc đổi mới (1991 - 1995)

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào giai đoạn cách mạng mới trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên địa bàn xã bằng những nhiệm vụ cụ thể trên tất cả các lĩnh vực: đổi mới tư duy, đổi mới kế hoạch phát phát kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều hành, quản lý của chính quyền, đổi mới các hoạt động văn hóa thiết thực, phù hợp với nhu cầu của nhân dân, hạn chế tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường….

Thực hiện hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, tháng 5 năm 1991, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ XIX. Đại hội đã bầu ra ban Chấp hành gồm 11 đồng chí. Đồng chí Bùi Văn An được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Lê Ngọc Bình Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ các đại hội trước, Đại hội thống nhất đánh giá: qua 5 năm đổi mới các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, song nhìn chung đời sống của nhân dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; tình hình chính trị trên thế giới cũng như trong nước có tác động không tốt đến sự ổn định và phát triển của địa phương. Đứng trước những thuận lợi và khó khăn đó, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân trong xã phải đoàn kết, đồng sức, đồng lòng, năng động, sáng tạo đưa kinh tế phát triển, nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân.

Để đạt được chỉ tiêu về lương thực, thực phẩm, Đảng ủy đã có những giải pháp chỉ đạo, như: mở rộng diện tích sản xuất trên cơ sở tận dụng quỹ đất hiện có, khai hoang phục hóa, mở rộng diện tích vụ đông, thực hiện chuyển dịch cơ cấu giống lúa, thay dần các giống lúa cũ bằng các giống lúa lai, lúa thuần chủng có năng xuất cao như: Q5, 13/2, CR203... Có thể nói đây là những chủ trương hết sức đúng đắn góp phần đưa nông nghiệp Thọ Sơn có những bước phát triển mới.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Đại hội, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã vượt lên khó khăn dành được những thắng lợi trên mọi lĩnh vực: diện tích cây trồng được mở rộng, tổng sản lượng lương thực tăng lên đáng kể, chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chủng loại, kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Trên đà những thắng lợi trên, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững chắc tiến lên trên con đường đổi mới.

Để người nông dân thực sự làm chủ đồng ruộng, thực hiện Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy Thanh Hóa ngày 2 - 5 - 1993, Đảng bộ xã họp triển khai việc giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho nông dân. Đảng bộ chỉ đạo hợp tác xã rà soát lại ruộng đất, nhân khẩu trong địa phương để tiến hành chia lại ruộng một cách công bằng, ưu tiên những hộ chính sách, người già cả neo đơn.

Trong chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ luôn quán triệt chủ trương: phát huy tính tích cực chủ động của nhân dân, có sự định hướng, giúp đỡ của tập thể. Sản xuất phát triển, vốn tích lũy càng nhiều tạo điều kiện cho nhân dân tái đầu tư cho sản xuất. Nông cụ được cải tạo, lao động thủ công dần dần được thay bằng lao động cơ khí.

Diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lúa không ngừng được nâng lên. Việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ được Đảng bộ đặc biệt chú trọng. Bên cạnh các cây trồng truyền thống như: khoai lang, sắn, giống gô cũ… Đảng bộ chỉ đạo đưa cây ngô lai thành cây chủ lực. Vụ đông đang dần trở thành một vụ chính của người dân Thọ Sơn, với tổng diện tích đạt được năm 1995 là 92ha, sản lượng đạt 342 tấn.

Từ khi thực hiện khoán 10, hợp tác xã nông nghiệp giải thể trại chăn nuôi, khuyến khích chăn nuôi hộ gia đình. Nhìn chung chăn nuôi giai đoạn này gặp nhiều khó khăn do từ cuối năm 1994 dịch bệnh phát triển mạnh ở đàn lợn nên số lượng giảm mạnh. Địa pương đã tăng cường công tác dập dịch, vệ sinh chuồng trại, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên đến năm 1995, đàn gia súc, gia cầm được phục hồi. Tính đến năm 1995, đàn trâu bò có 870con, đàn lợn có 1.700con, số lượng cá thu được ước đạt 11 tấn.

Với những chủ trương đúng đắn, Đảng bộ Thọ Sơn đã khơi dậy được sức mạnh toàn dân, làm tốt công tác kiên cố hóa hệ thống kênh mương, góp phần chủ động tưới tiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân canh tác, đưa năng suất cây trồng ngày một lên cao.

Về lâm nghiệp: thực hiện chương trình kinh tế vùng đồi do Đại hội lần thứ XII Đảng bộ huyện Triệu Sơn đề ra nhằm thu hút lao động tạo ra hàng hóa ngày càng lớn. Thọ Sơn có 390ha đất lâm nghiệp, thực hiện chỉ đạo của huyện Triệu Sơn, chính quyền đã lập đề án từng bước giao cho dân để bảo vệ rừng tái sinh, trồng rừng và trồng cây công nghiệp ngắn ngày. Trước mắt trồng chè ở khu đồi có độ dốc thấp, tiến trồng mía ở khu đồi có diện tích dưới 15 độ, khu vực có độ dốc cao hơn thì trồng bạch đàn, bảo vệ rừng tái sinh.

Cùng với chương trình phát triển kinh tế vùng đồi và thực hiện dự án 327, huyện Triệu Sơn đã di dời 1.000 hộ dân lên vùng kinh tế mới, cùng với xóm Bảo Lâm của Thọ Sơn và xóm Thoi của Thọ Bình để thành lập xã Bình Sơn. Cả một vùng đồi núi phía tây của huyện thuộc các xã Thọ Sơn, Thọ Bình đã thức dậy, với bàn tay, khối óc của hàng ngàn người biến đồi hoang cỏ úa thành một màu xanh của nương chè, nương mía, đồi cây… Đặc biệt việc đưa cây mía vào trồng với diện tích lớn, năm 1995 trồng được trên 65ha đạt 4.100 tấn, mở ra hướng đi mới trong sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày ở địa phương.

Ngành nghề ở địa phương cũng có bước phát triển mới. Các phương tiện vận tải như xe công nông, xe gia súc kéo phát triển mạnh. Năm 1994, số máy xay sát, máy nghiền thức ăn gia súc, máy làm đất… có gần 30 chiếc.  Các ngành nghề như: khai thác vật liệu, làm gạch, đan lát, xây dựng… phát triển khá. Tổng giá trị ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp… năm 1994 tăng lên 520 triệu đồng (thời giá năm 1994).

Về xây dựng cơ bản: Đảng bộ chủ trương: phát triển kinh tế luôn đi đôi với ổn định xã hội, nâng cao dân trí, đảm bảo công bằng xã hội. Vì vậy, việc xây dựng các công trình phục vụ sản xuất, các công trình phúc lợi phục vụ nhân dân luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân xã nhà. Trong giai đoạn 10 năm (1986 – 1995), Thọ Sơn đã tiến hành tu bổ, làm mới các công trình để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân như: lắp 1 trạm điện và hệ thống đường dây phục vụ nhân dân, tu bổ, cải tạo tuyến đường liên hương lên làng Nác Nã, tu bổ hệ thống hồ đập, mương máng phục vụ tưới tiêu…

Thực hiện chủ trương “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học cũng được quan tâm hơn. Các khu nhà trẻ, mẫu giáo ở các thôn được tu sửa, đảm bảo cho các cháu có nơi học tập. Trường phổ thông cơ sở được làm thêm phòng học, đóng mới bàn ghế để học sinh có nơi học tập.

Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, những con đường làng ngõ xóm xưa kia gồ ghề, lầy lội dần dần được mở rộng, tôn cao, hệ thống kênh mương từng bước được cải tạo.

Giai đoạn 1986 – 1995, Thọ Sơn có nhiều cố gắng để cải tạo cơ sở vật chất hạ tầng. Đảng bộ và nhân dân trong xã đã vận dụng nội lực của mình và tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước để xây dựng được một số công trình phúc lợi phục vụ sản suất và dân sinh. Tuy nhiên, là một xã miền núi, điều kiện sản xuất, sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, đầu tư của Nhà nước cho địa phương còn hạn chế nên nhìn chung cơ sở vật chất của xã còn nghèo nàn, xây dựng, cải tạo chủ yếu mang tính chắp vá để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Nhưng những gì mà cán bộ, nhân dân Thọ Sơn làm được sau 10 đổi mới là quan trọng.

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn luôn nhận thức rõ văn hóa là nền tảng của xã hội, là động lực của sự phát triển. Năm 1991, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có Công văn số 33/VHTT hướng dẫn khai trương xây dựng làng văn hóa, Đảng ủy, chính quyền nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội ở địa phương, góp phần quan trọng để thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới.

Đảng bộ đã xác định xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thọ Sơn đã tổ chức Đại hội đại biểu các gia đình văn hóa mới. Hàng năm đưa ra các chỉ tiêu để các gia đình đăng ký, thi đua phấn đấu, việc bình xét được tổ chức công khai dân chủ, những gia đình được xét công nhận đều được biểu dương khen thưởng và cấp giấy chứng nhận.

Phong trào xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, năm 1989 toàn xã có gần 30% số hộ nghèo, thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn. Đảng bộ, chính quyền đã quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các gia đình phát triển kinh tế vươn lên thoát nghèo. Kết quả đến năm 1995, số hộ nghèo trong xã giảm xuống còn 18%. Các hộ gia đình chính sách được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể quan tâm giúp đỡ, trong 5 năm 1991 - 1995, toàn xã đã quyên góp, tặng 17 sổ tiết kiệm cho các hộ chính sách gặp khó khăn.

Giáo dục có những bước tiến đáng kể, mặc dù cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng thầy và trò trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn vẫn thi đua dạy tốt - học tốt. Tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp trung bình hàng năm đạt 91%. Ngày 23 - 8 - 1993, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn được chia tách thành trường Tiểu học Thọ Sơn do thầy Lê Kim Thuấn (Vân Sơn) làm hiệu trường và trường Trung học cơ sở Thọ Sơn do thầy Trần Thanh Tuấn (Hợp Thắng) làm hiệu trưởng. Đây là giai đoạn các trường gặp nhiều khó khăn: học sinh phải học 3 ca, giáo viên thiếu, đời sống gặp nhiều khó khăn. Dù vậy, bằng nỗ lực của các thầy cô giáo, với sự động viên của các cấp ủy chính quyền, chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ nét, tỉ lệ học sinh đậu vào trường trung học phổ thông đạt 56%. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ đạt 90%, hằng năm vận động được 97% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Dù vậy, đây là giai đoạn giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất như: phòng học, bàn ghế, đồ dung dạy học thiếu thốn, tỷ lệ học sinh lưu ban, ngồi nhầm lớp còn cao…

Công tác y tế giữ được ổn định, nhất là công tác y tế dự phòng. Các phong trào như: tiêm vắc xin cho trẻ, chương trình PAM chăm sóc trẻ và bà mẹ mang thai... được triển khai hiệu quả. Phong trào đào giếng, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh được duy trì, dù kết quả chưa cao. Công tác kế hoạch hóa gia đình luôn được Đảng bộ, ngành y tế, Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã quan tâm sâu sát, tỷ lệ sinh con thứ ba giảm xuống còn 1,45%.

Mặc dù đây là thời bình nhưng nguy cơ bất ổn xã hội vẫn tiềm ẩn, nhất là khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh xã hội trên, Đảng bộ tập trung lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu đập tan âm mưu bạo loạn, chia rẽ của kẻ thù. Lực lượng dân quân được huấn luyện thường xuyên, định kỳ tổ chức diễn tập theo kế hoạch của huyện đội, xã đội. Công tác đăng ký quân dự bị động viên được tiến hành thường xuyên, hàng năm giao quân đều đạt và vượt mức chỉ tiêu.

An ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương được giữ vững. Hoạt động của các tổ an ninh, tổ hòa giải ở các thôn dần đi vào nền nếp. Cùng với dân quân tự vệ, ban công an xã đã phối hợp lên phương án sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bạo loạn, gây rối trật tự, trị an, giải quyết được nhiều vụ việc phức tạp, giữ vững trật tự an ninh trong xã.

Về công tác Đảng, năm 1993, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XX. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí, đồng chí Bùi Văn An được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Ngọc Bình Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu lại làm Phó Bí thư. Nghị quyết các Đại hội đã tập trung đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương trong nhiệm kỳ vừa qua. Đánh giá một cách khách quan những mặt tích cực, những thành tựu đã đạt được, thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, yếu kém trong nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời đề ra những định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên được Đảng bộ coi trọng. Việc thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) được tiến hành nghiêm túc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đi sâu vào xây dựng bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng bộ đã tổ chức cho đảng viên học chương trình lý luận cơ sở, đưa nhiều cán bộ đi học trung cấp chính trị, quản lý Nhà nước tại Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa...

Đợt sinh hoạt phê bình và tự phê bình theo tinh thần Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng được Đảng bộ triển khai chặt chẽ, chu đáo nên đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Ý thức chấp hành Điều lệ Đảng, và hoàn thành nhiệm vụ của đảng viên được giao tốt hơn. Đa số các đồng chí trong Đảng bộ giữ vững được lập trường, tư tưởng, vai trò tiền phong gương mẫu và sức chiến đấu của mình, nhưng cũng còn một số đồng chí tỏ ra hoang mang, dao động khi tình hình thế giới có biến động, thiếu gương mẫu trong lối sống và công tác. Vì vậy, Đảng bộ đã kỷ luật 9 đảng viên vi phạm kỉ luật Đảng (bao gồm cả những đảng viên vi phạm chính sách dân số), giảm sức chiến đấu, trong đó có một số đồng chí bị khai trừ và xóa tên.

Song song với việc làm trong sạch đội ngũ, công tác bồi dưỡng, giáo dục, và phát triển đảng viên luôn được Đảng bộ quan tâm. Đảng bộ đã tổ chức cho nhiều thanh niên tham gia học lớp cảm tình Đảng và xét kết nạp cho những thanh niên ưu tú đứng vào đội ngũ của Đảng, giai đoạn 1986 - 1995, Đảng bộ đã kết nạp được 8 đảng viên nhằm tăng thêm sức chiến đấu của tổ chức đảng ở địa phương.

Nhận thức rõ chính quyền đoàn thể cơ sở vững mạnh là nhân tố quyết định thắng lợi trên mọi mặt ở địa phương, Đảng bộ Thọ Sơn đã tập trung lãnh đạo xây dựng chính quyền vững mạnh. Đảng bộ đã ra nghị quyết chuyên đề về xây dựng chính quyền và nghị quyết về công tác của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm từng bước đưa các hoạt động của các tổ chức này lên cao, phù hợp với thời kỳ đổi mới.

Giai đoạn này, Hội Cựu chiến binh xã được thành lập, đồng chí Bùi Văn Bịn được bầu làm Chủ tịch.

Để phù hợp với cơ chế quản lý mới, Đảng ủy đã quyết định giải thể hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã nông nghiệp. Toàn bộ việc quản lý ruộng đất, tài sản và điều hành sản xuất giao cho Ủy ban nhân dân xã. Đồng thời chuẩn bị thành lập hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng yêu sản xuất trong giai đoạn mới.

Trong 10 năm (1986 – 1995), thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã giành được những thành tựu to lớn và toàn diện. Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, diện mạo nông thôn thay đổi đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới trong cả nước. Qua thực tiễn của quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, với vai trò tiên phong của mình. Những thành công của mười năm đổi mới là cơ sở vững chắc để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững bước trên con đường đi tới.

II.  TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓANÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1996 - 2015)

1. Thọ Sơn  trong giai đoạn đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (1996 - 2000)

Ngày 28 tháng 6 năm 1996, tại thủ đô Hà Nội đã tiến hành khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Đại hội khẳng định: “Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã hoàn thành cơ bản cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.([42]) Đại hội đã đưa ra mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại...

Đảng bộ Thọ Sơn đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng bộ, nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện ủy Triệu Sơn lần thứ VIII (tháng 3 - 1996), và đề ra chương trình hành động của địa phương trong giai đoạn mới.

Qua học tập nghị quyết, các đồng chí đảng viên trong Đảng bộ nắm vững chủ trương của Đảng trong tình hình mới: “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản. Đảng ta coi trọng tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu, là công việc thường xuyên đảm bảo cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ cách mạng”[43]. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong mọi hành động của mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ.

Thực hiện chỉ đạo của huyện ủy, tháng 5 năm 1996, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI được tổ chức. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ trước, Đại hội khẳng định: Đảng bộ và nhân dân đã đoàn kết, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, giành được những thắng lợi quan trọng, đạt được một số chỉ tiêu cơ bản Đại hội đề ra. Những thành tích trên tuy khiêm tốn, nhưng đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn phấn đấu đạt kết quả cao hơn trong thời gian tới.

Tuy nhiên, đây là giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi lúng túng, bỡ ngỡ. Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, dũng cảm nhận khuyết điểm để tiến lên, Đảng bộ đã chỉ ra những tồn tại cần khắc phục là: Nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế có chuyển biến, nhưng chuyển dịch kinh tế còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai, đồi rừng và vị trí địa lí của địa phương; tình hình nợ sản trong nhân dân vẫn còn nhiều; ngành nghề chưa phát triển; tư duy kinh tế của số đông cán bộ, nhân dân vẫn chưa bắt kịp yêu cầu của thị trường...

Về phát triển nông nghiệp, Đảng bộ quán triệt giải pháp mà Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng bộ huyện Triệu Sơn đưa ra là: “Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp và phát triển nông thôn, bao gồm: đổi mới cơ cấu mùa vụ, cây con theo hướng sản xuất hàng hóa, mở rộng vụ đông đạt 50% diện tích đất lúa; phát triển đàn bò lai Sin, lợn hướng nạc, gà công nghiệp, dê, ong rừng; mở rộng diện tích mía, lạc, cây ăn quả, ổn định diện tích chè; phát triển vành đai xanh, hoàn thành dự án trồng rừng 327. Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương đã xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm từng bước đưa nghị quyết vào cuộc sống, phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế, xã hội Đại hội đề ra.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Lê Ngọc Bình được bầu làm làm Bí thư; đồng chí Bùi Văn Khuy Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu làm Phó Bí thư.

Cũng như các địa phương khác trong vùng, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn luôn được coi là mặt trận hàng đầu. Sau khi thực hiện khoán 10, nhất là sau khi giao đất ổn định, lâu dài cho nông dân, nông nghiệp phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ ngàn đời nay, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn là quá trình vật lộn với mưa dông, nắng hạn để làm ra củ khoai, hạt thóc. Ngay trong năm đầu tiên thực hiện kế hoạch của Đại hội Đảng bộ, vụ chiêm xuân 1996, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn phải trải qua trận rét đậm ảnh hưởng lớn đến vật nuôi, cây trồng. Suốt nhiều ngày liên tục, nhiệt độ luôn xuống dưới 100C, cấp ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo nhân dân chống rét cho lúa và đàn gia súc. Dù vậy, lúa vẫn chết hàng loạt, số diện tích lúa chết lên tới 27%, trong đó có nhiều diện tích không có khả năng hồi phục phải cấy lại hoàn toàn. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ tập trung chỉ đạo nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai. Trước hết tập trung chăm sóc những trà lúa còn lại, những ruộng bị chết một phần thì tập trung nhân lực cấy bổ sung giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn như: CR202, CN02... Nhân dân tiến hành gieo mạ trên sân, chăm sóc đúng kỹ thuật để cấy kịp thời vụ, chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ diện tích đã được cấy hết. Thành quả lao động vất vả của nhân dân đã cho vụ chiêm thắng lợi, nhân dân phấn khởi, củng cố niềm tin đối với Đảng. Vụ chiêm qua đi trong giá rét, vụ mùa lại đến với bão dông, lũ lụt. Bốn trận áp thấp liên tiếp đã tạo nên những trận lụt triền miên, nước từ trên núi theo suối đổ về đe dọa các công trình thủy lợi, gây thiệt hại nặng, năng suất lúa vụ này giảm trung bình 20%, riêng sản xuất vụ đông bị thiệt hại nặng. Năng suất giảm, việc thu sản gặp rất nhiều khó khăn, cho đến cuối năm vẫn còn tồn đọng ở một số đội sản xuất, dù vậy, địa phương vẫn quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Thực hiện Nghị quyết 01 của Huyện ủy, ngày 31 - 8 - 1996 về chỉ đạo sản xuất vụ đông, địa phương đã tăng cường chỉ đạo sản xuất vụ đông. Các chi bộ đều ra nghị quyết yêu cầu các đồng chí đảng viên phải gương mẫu đi đầu để nhân dân noi theo. Để khuyến khích sản xuất vụ đông, tỉnh có chủ trương cho nhân dân vay vốn không phải trả lãi, khi thu hoạch xong (thời gian 4 tháng) mới trả gốc. Địa phương đã tranh thủ nguồn vốn vay hỗ trợ, đồng thời xuất tiền trợ giá cho nhân dân mua giống, phân bón theo đầu sào. Thời gian này Thọ Sơn tiếp tục đưa các giống cây có năng suất cao như: ngô lai bioseed, ngô lai số 9... vào sản xuất. Công tác thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ tài sản... cũng được triển khai nhằm hỗ trợ nhân dân sản xuất. Chính vì vậy, giai đoạn này sản xuất vụ đông ở Thọ Sơn tăng trưởng khá, đến năm 1999 đạt 110ha chủ yếu là ngô lai, diện tích, sản lượng tăng 2 lần so với năm 1995. Như vậy, nếu tính cả màu quy thóc, tổng sản lượng lương thực đạt 1.820 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 440kg/năm. Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, năm 1995, tỷ lệ hộ nghèo năm 2000 giảm xuống còn 15%.

Thời gian này, Đảng bộ tập trung chỉ đạo việc thành lập hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thay thế mô hình hợp tác xã nông nghiệp trước kia. Sự ra đời hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là bước đi tất yếu trong quá trình đổi mới quản lý nông nghiệp ở nông thôn. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chức năng cung ứng các dịch vụ cho sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật... Đây là mô hình hợp tác xã mới phù hợp với việc chuyển đổi trong quản lý nông nghiệp giai đoạn này, tuy nhiên do nhiều lý do hoạt động của hợp tác xã gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại hình dịch vụ tư nhân khác.

Cũng trong thời gian này, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện Chỉ thị 13/CT-TU (3-9-1998) của Tỉnh ủy Thanh Hóa về việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ lên ô thửa lớn. Trước đây, trung bình mỗi hộ có từ 5 đến 7 thửa ruộng, phân tán ở nhiều xứ đồng. Khi sản xuất phát triển đã nảy sinh những bất cập, nhất là việc đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng, chuyển dịch cơ cấu và đưa sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Quán triệt nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn, trên cơ sở thực tế địa phương, Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân, tăng cường công tác tuyên truyền để nhân dân thấy rõ lợi ích của việc dồn điền đổi thửa. Khi tiến hành phải đảm bảo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và dân chủ”, lấy thôn làm đơn vị chuyển đổi, ổn định hạng đất để tính thuế. Nhờ chuẩn bị chu đáo, được sự đồng thuận của đa số nhân dân, việc dồn điền đổi thửa ở Thọ Sơn đã đạt kết quả tốt. Thành công này góp phần quan trọng để địa phương tiếp tục quy hoạch lại đồng ruộng, đất đai được tích tụ theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Một nhiệm vụ khác được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo là chương trình kiên cố hóa kênh mương nội đồng. Bằng nguồn vốn tự có cùng với sự hỗ trợ của cấp trên, địa phương đã tiến hành kiên cố hóa được 850m mương, tu bổ hệ thống đường liên hương... Tuy nhiên, là một xã vùng xa của huyện Triệu Sơn, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên kết quả xây dựng cơ sở vật chất còn thấp, cả xã chưa đổ bê tông được tuyến đường giao thông nào.

Từ năm 1999, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy về chương trình giống lúa lai. Thực tế sản xuất ở địa phương đã cho thấy, muốn có năng suất vượt bậc thì giống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Những giống lúa thuần chủng có năng suất cao, những giống lúa lai đã góp phần quan trọng đưa tổng sản lượng lương thực ở địa phương lên cao. Tuy nhiên, do thói quen của người nông dân ngại đổi mới, hơn nữa khi cấy giống lúa mới yêu cầu kỹ thuật cao hơn, nên nhiều người ngại làm. Đảng ủy đã có nghị quyết chuyên đề về việc nhân rộng diện tích lúa lai ở địa phương. Địa phương đã xây dựng thành công vùng giống thuần cấp 1 phục vụ yêu cầu cho nhân dân trong xã.

Là một địa phương miền núi, chăn nuôi gia súc, nhất là bò có nhiều chuyển biến. Việc đưa các biện pháp kỹ thuật vào chăn nuôi như: con giống, thức ăn, phòng dịch khiến vòng quay trong chăn nuôi nhanh hơn, giá trị hàng hóa cũng ngày một cao. Tổng thu nhập từ chăn nuôi mỗi năm tăng 4%, chiếm khoảng 20% tổng thu nhập của xã. Nhiều mô hình chăn nuôi quy mô tương đối lớn đã xuất hiện, một số hộ có có thu nhập 10 - 15 triệu đồng/năm. Nhìn chung giai đoạn này chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất vẫn còn mang tính quảng canh, vấn đề đầu ra cho sản phẩm bấp bênh, nhiều khi người sản xuất lãi rất thấp.

Thực hiện dự án phát triển kinh tế đồi rừng của huyện, lâm nghiệp ở địa phương có bước phát triển mới. Toàn xã có 390ha đất lâm nghiệp, địa phương đã làm thủ tục cấp lâm bạ cho các hộ được giao đất tại một số khu vực để nhân dân yên tâm sản xuất. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện Triệu Sơn, Ủy ban nhân dân xã đã có đề án khai thác hiệu quả đất vùng đồi. Căn cứ vào độ dốc, chất đất để phân bố các khu vực gồm: bảo vệ rừng tái sinh, trồng rừng, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, nuôi cá, nuôi ong... Trong năm 5 (1995 – 2000) đã trồng được 72ha cây lâm nghiệp, trong đó có 35ha trồng theo chương trình 135. Đặc biệt việc đưa cây mía về trồng ở địa phương đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đến năm 1998, Thọ Sơn đã trồng được 260ha mía nguyên liệu, gấp 4 lần so với năm 1995, sản lượng đạt 11.000 tấn, năm 2000 đạt 18.000 tấn (tăng hơn 4 lần so với năm 1995), trung bình mỗi năm đạt 3,5 tỷ đồng, tương đương với thu nhập từ cây lương thực. Đầu năm 2000, dự án trồng cây cà phê co Công ty Cà phê, cao su Thanh Hóa triển khai đã trồng được 60ha cà phê, sau đó tiếp tục mở rộng.

Giai đoạn này, Thọ Sơn đã có 18 trang trại trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, nuôi ong, thả cá có diện tích 3 - 40ha mỗi trang trại. Một số trang trại có thu nhập khá, mỗi năm đạt 20 - 40 triệu đồng.

Ngành nghề, dịch vụ đã có nhiều khởi sắc. Các nghề như: sản xuất gạch ngói, nghề mộc, nề, sửa chữa cơ khí, vận chuyển, dịch vụ làm đất, làm nấm… đã thu hút hàng trăm lao động, tăng thêm thu nhập cho nhân dân.

Giai đoạn này, Thọ Sơn đã xây dựng được một số công trình phục vụ sản xuất, dân sinh và các công trình phúc lợi xã hội như: nâng cấp phòng học, đầu tư trang thiết bị Trường Tiểu học theo chương trình chuẩn Quốc gia, xây dựng mới 2 nhà trạm y tế, xây dựng lại chợ, cải tạo đường điện, xây dựng tượng đài liệt sỹ, kiên cố hóa 1,6km kênh mương, xây dựng các đường xương cá ở các cụm dân cư… với tổng kinh phí đầu tư trên 600 triệu đồng.

Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Sau hơn mười năm đổi mới, đời sống kinh tế xã hội có bước phát triển, nhu cầu về văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên. Các phương tiện nghe nhìn như: ti vi, đài, video ngày càng phổ biến.

Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là lớp trẻ. Lối sống thực dụng len lỏi vào làng quê. Các hủ tục lạc hậu như: ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín, dị đoan, nạn lô đề có xu hướng phát triển.

Từ năm 1995, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể triển khai học tập đến toàn thể nhân dân và có kế hoạch cụ thể đưa các cuộc vận động trên thành một phong trào thi đua rộng khắp trong toàn dân. Các phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, xây dựng gia đình văn hóa mới” tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào đã khơi dậy nét đẹp văn hóa ngàn đời của làng quê Việt Nam như: thương yêu đùm bọc lẫn nhau, nết thảo hiền, đức hiếu nghĩa, thực sự coi gia đình là tế bào của xã hội, qua đó giáo dục các thành viên. Năm 1996, toàn xã có 55% gia đình được cấp giấy công nhận gia đình văn hóa, đến năm 2000, số gia đình văn hóa của xã đạt trên 67% hộ.

Thực hiện Nghị quyết V (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo bằng nhiều giải pháp thực hiện, trong đó tập trung xây dựng làng văn hóa. Đến năm 2000, Thọ Sơn đã tổ chức khai trương được 3 làng văn hóa là: Nác Nã, Đồng Chiêm và thị Tứ Tân Sơn.

Giai đoạn này, trên diện rộng giáo dục trên đà hồi phục và có chiều hướng phát triển. Năm 1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) có Nghị quyết 02 về công tác giáo dục đào tạo, đánh giá thực trạng nền giáo dục nước nhà, định hướng cho phát triển giáo dục giai đoạn tới và lần nữa khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Dù ngân sách còn hạn hẹp, nhưng cơ sở vật chất nhà trường được quan tâm cải tạo, nhân dân đã tích cực đóng góp xây dựng để con em có nơi học tập thuận lợi, xóa tình trạng học 3 ca. Năm 1995, trường Mầm non chính thức được thành lập trên cơ sở khối mẫu giáo và khối nhà trẻ trước kia. Địa phương đã xây dựng được khu trường trung tâm, thu hút các cháu đến học.

Chất lượng dạy và học của các trường không ngừng được nâng lên. Tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp đạt 95 – 97%, tỷ lệ học sinh khá giỏi đạt 37%.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh môi trường của trạm y tế được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Trạm y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ thầy thuốc, hằng năm khám và điều trị ban đầu cho hàng ngàn lượt người. Trạm tiếp tục tham mưu cho lãnh đạo địa phương đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tiêu và giếng nước hợp vệ sinh. Kết quả chưa thực sự cao nhưng cũng đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường sống. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, tỷ lệ sinh con thứ 3 ở địa phương giảm mạnh, năm 1999, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,21%.

Công tác xóa đói, giảm nghèo và chính sách xã hội được thực hiện nghiêm túc. Ủy ban nhân dân xã đã liên hệ với ngân hàng chính sách cho hơn 300 hộ ngèo vay vốn sản xuất, với số tiền gần 600 triệu đồng. Năm 2000, số hộ nghèo tính theo tiêu chí mới là 14,9% (tiêu chí cũ là 22,6%).

Sau hơn mười năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tuy nhiên các thế lực thù địch vẫn điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam thông qua diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ. Một số bọn phản động lưu vong ở nước ngoài lén lút trở về Việt Nam hoạt động. Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế gắn với an ninh, quốc phòng, phát triển lực lượng quân sự tại chỗ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Giai đoạn này công tác đăng ký quân nhân dự bị được duy trì thường xuyên. Các trung đội dân quân duy trì huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu khi có chiến tranh xảy ra. Chỉ tiêu giao quân của xã luôn hoàn thành, trung bình mỗi năm địa phương có 10 - 15 thanh niên nhập ngũ.

Công tác an ninh chính trị, trật tự xã hội được duy trì tốt. Các tổ an ninh cơ sở hoạt động có hiệu quả, lực lượng công an đã giải quyết các vụ việc, không để xảy ra vụ việc lớn nào ở địa phương.

Xác định rõ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiều năm qua Đảng bộ tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên quê hương. Đảng bộ luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và mỗi đảng viên, coi đó là yếu tố quyết định cho mọi thắng lợi ở địa phương. Thời gian qua, khi tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình trong nước gặp nhiều khó khăn, không ít đảng viên đã tỏ ra hoang mang, dao động, giảm sức chiến đấu.

Thực hiện hướng dẫn của cấp trên, Đảng bộ đã tiến hành triển khai Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay. Qua việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên tự đối chiếu với việc hoàn thành nhiệm vụ, tư cách đảng viên để tu dưỡng, rèn luyện. Kết quả phân loại năm 2000 như sau: Tổng số đảng viên dự phân loại: 172, trong đó đảng viên loại 1: 161, đảng viên loại 2: 10, đảng viên loại 3: 1 đảng viên. Tổng số chi bộ: 18, trong đó: trong sạch vững mạnh: 13, khá: 5, yếu kém: 0. Đảng bộ đạt trong sach vững mạnh.

Giai đoạn này, Đảng ủy đã giới thiệu 9 đồng chí đi học trương trình trung cấp chính trị và quản lý Nhà nước, 3 đồng chí đi học chương trình sơ cấp, kết nạp được 28 đảng viên mới.

Qua các lần kiện toàn lại bộ máy, Đảng bộ quan tâm đến việc lựa chọn nhân sự, nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực hiện Nghị định 09/NĐ-CP của Chính phủ, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ngày càng được đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng công việc ngày càng cao của địa phương.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là thực hiện tốt Nghị định 29/1998 của Chính phủ về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Qua thực hiện Nghị định 28, quyền làm chủ của nhân dân lao động được phát huy cao hơn. Người dân được bàn, được làm, giám sát thực hiện nhiều công việc theo quy định, nhất là việc xây dựng các công trình phúc lợi. Qua đó, chất lượng công trình cao hơn, nhân dân thêm tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, tự nguyện đóng góp để xây dựng nhiều công trình như: điện, giao thông... đạt kết quả cao.

Các tổ chức đoàn thể đã có nhiều hoạt động phù hợp với tổ chức mình để vận động hội viên, đoàn viên đóng góp tích cực cho các phong trào chung của xã. Giai đoạn này có nhiều hoạt động, trong đó tiêu biểu là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phong trào xóa đói giảm nghèo, phong trào xóa bỏ nhà tranh tre nứa lá. Những kết quả trên là bước tạo đà quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục vững bước trên chặng đường tiếp theo.

2.     Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2005

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện nhiệm vụ giai đoạn này bằng một sự kiện quan trọng, tháng 10 năm 2000, tại hội trường của xã, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXII được tổ chức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Lê Ngọc Bình được bầu lại làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Duy Quý Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó bí thư.

Với tinh thần: Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới, Đại hội đã đi sâu đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ giai đoạn vừa qua, khẳng định những thành tích đạt được trong 15 năm đổi mới, đặc biệt là việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội nhiệm kỳ vừa qua là quan trọng và căn bản, tạo tiền đề để địa phương đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn ở bước cao hơn.

Trên cơ sở thực tế địa phương và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát cho nhiệm kỳ 2000 - 2005 là: Tranh thủ thời cơ thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn thử thách đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn những năm trước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực khai thác mọi tiềm năng để phát triển; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao quản lý, điều hành của chính quyền; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh...

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXII trong điều kiện có những thuận lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm kinh tế địa phương còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo khá cao, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và phúc lợi xã hội nghèo nàn, yếu kém, giá cả nông sản không ổn định, đầu ra gặp khó khăn, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra…

Thực tế ấy đòi hỏi cán bộ và nhân dân đoàn kết, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn vươn lên trên các mặt kinh trế, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Văn hóa xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng được cải tạo, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.

Trong lúc Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đang ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thì ngày 19 tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng ta khi bước vào thế kỷ XXI. Đại hội khẳng định: “Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.

Đảng bộ đã tổ chức cho đảng viên học tập nghị quyết Đại hội IX, qua học tập các đồng chí đảng viên nhận thức sâu sắc hơn về con đường cách mạng của Đảng, tự hào về những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta giành được. “Đối với nước ta, thế kỷ   XX là thế kỷ   của những biến đổi to lớn, thế kỷ của đấu tranh oanh liệt giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ   của những chiến công và thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử và thời đại.

Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, củng cố niềm tin của đảng viên và quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong lúc các thế lực thù địch đang tăng cường xuyên tạc đường lối của Đảng ta. Cũng qua học tập Nghị quyết Đại hội, nội dung tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh được cán bộ, đảng viên tiếp thu tương đối toàn diện và có hệ thống.

Đảng bộ đã đề ra chương trình hành động cụ thể, phát động toàn dân hăng hái thi đua vì mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, quê hương giàu mạnh. Phát huy truyền thống của quê hương, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vượt qua mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, từng bước xây dựng cuộc sống mới và thu được nhiều thành tích đáng phấn khởi.

Thực hiện chủ trương coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, Đảng bộ và chính quyền tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi. Thực hiện đồng bộ các biện pháp thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất hai vụ lúa, mở rộng diện tích vụ đông trên đất 2 lúa, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Kinh tế đồi rừng, ngành nghề, dịch vụ cũng tiếp tục phát triển, góp phần quan trọng đưa tăng trưởng kinh tế hằng năm đạt 10,5% (vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra 0,5%). Trong đó nông nghiệp tăng 6%, dịch vụ, công nghiệp tăng 45%. Bình quân thu nhập đầu người đạt 6 triệu đồng/năm.

Nhờ có nhiều biện pháp tích cực nên sản xuất nông nghiệp hàng năm đều tăng về diện tích, năng suất, sản lượng. Đến năm 2004, năng suất bình quân cả năm đạt 11 tấn/ha, tổng sản lượng quy thóc đạt 2.116 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 480kg/năm. Sản xuất vụ đông đạt kết quả khá, người dân tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đưa những cấy có giá trị kinh tế cao như: ngô lai, các loại rau màu có giá trị kinh tế đưa mỗi héc ta lên trên 30 triệu đồng.

Theo chỉ đạo của huyện, Ủy ban nhân dân xã đã lập đề án chăn nuôi giai đoạn 2003 - 2010, có nhiều biện pháp thúc đẩy chăn nuôi trên địa bàn phát triển. Đến năm 2004, đàn trâu có 636 con, tăng 80% so với nhiệm kỳ trước. Chương trình sin hóa đàn bò, cải tạo tầm vóc và nâng cao giá trị kinh tế trong chăn nuôi bò được triển khai có hiệu quả. Đàn lợn có 2.625 con, đàn gia cầm trên 20.000 tăng 17% so với nhiệm kỳ trước. Phong trào nuôi cá, nuôi ong vẫn được duy trì mang lại lợi ích kinh tế cho người dân. Trong chăn nuôi quy mô dần được mở rộng theo hướng bán công nghiệp, toàn xã đã xây dựng được 12 trang trại, trong đó có 5 trang trại thu nhập trên 50 triệu đồng/năm.

Lâm nghiệp của địa phương tiếp tục phát triển, trồng mới được 35ha rừng, đưa diện tích cây lâm nghiệp lên 245ha. Trong đó có 46ha diện tích luồng và cây lấy gỗ cho thu hoạch, trung bình thu nhập từ lâm nghiệp mỗi năm đạt trên 1 tỷ đồng. Sản suất mía vẫn phát triển ổn định với 270ha, trung bình sản lượng đạt 17.000 tấn/năm.

Dịch vụ, thương nghiệp, việc làm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương. Quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ngày càng thể hiện rõ nét ở Thọ Sơn. Lao động thủ công giảm đi, thay vào đó là các loại máy móc phát triển ngày càng nhiều. Một số công đoạn trong sản xuất như: làm đất, vận chuyển, tuốt lúa, hoặc làm mộc, dịch vụ sửa chữa... hầu hết bằng cơ giới và điện. Tổng số hộ làm ngành nghề, dịch vụ trong xã có 210 hộ, thu hút 600 lao động có việc làm thời vụ và thường xuyên. Ngoài ra còn có 15 lao động đi nước ngoài, hàng trăm lao động đi làm xa quê cho thu nhập 2,5 - 3 tỷ đồng mỗi năm.

Cơ sở vật chất tiếp tục được cải tạo, xây mới, địa phương đã cải tạo, nâng cấp, xây mới được một số công trình như: bê tông hóa được 4,7km mương, nâng cấp làm mới một số tuyến đường giao thông, xây dựng thêm trạm biến áp và 1,3km đường cao thế, xây dựng, xây dựng trường mẫu giáo, 10 nhà văn hóa thôn… Tổng kinh phí xây dựng các công trình là 2 tỷ 236 triệu đồng, trong đó huy động từ nhân dân 537 triệu đồng.

Công tác giáo dục tiếp tục ổn định và phát triển. Cơ sở vật chất nhà trường được cải tạo.Do làm tốt công tác dân số, số lượng học sinh giảm dần, nhất là ở khối tiểu học. Từ năm học 2001 - 2002, Bộ Giáp dục - Đào tạo tiến hành thay sách giáo khoa ở tiểu học, đến năm học 2003 - 2004 thực hiện thay sách giáo khoa ở cấp trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh giỏi, học sinh tiên tiến ở các trường đạt 25%, tỷ lệ học sinh vượt cấp và tốt nghiệp đạt 97%. Nhiều năm, các trường đạt trường tiên tiến cấp huyện. Xã đã xây dựng được trung tâm học tập cộng đồng tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, tư vấn pháp lý cho hơn 2.000 lượt người.

Thực hiện Chỉ thị 06 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về củng cố hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo và có biện pháp nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác khám chữa bệnh. Hằng năm, trạm y tế khám, điều trị được 1.000 - 1.200 lượt người. Các hoạt động y tế khác cũng như: vệ sinh phòng dịch, tiêm chủng, chính sách dân số... luôn đảm bảo. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,05%.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới và làng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Số làng đã khai trương xây dựng làng văn hóa tiếp tục tăng lên. Hàng năm, có 71% gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Công tác thông tin, tuyên truyền và thể dục, thể thao được duy trì và tiếp tục phát triển.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa và xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ và nhân dân quan tâm đúng mức. Các đối tượng chính sách và gia đình chính sách được địa phương quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ vươn lên trong cuộc sống. Đến năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo còn 20,6%.

Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hằng năm, địa phương đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, huấn luyện quân sự và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.Thọ Sơn đã thực hiện nghiêm túc Quyết định 138-QĐ/CP của Chính phủ về bảo vệ an ninh và phòng chống tội phạm, lực lượng công an thường xuyên được củng cố, điều tra, phát hiện, xử lý các vụ trộm cắp tài sản công dân, nhiều vụ vi phạm pháp luật, số vụ vi phạm pháp luật qua mỗi năm đều giảm.

Các cấp ủy Đảng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng bộ đã kết hợp đánh giá đảng viên với việc củng cố tổ chức Đảng, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi luận điệu chống phá của kẻ thù. Cuối nhiệm kỳ, tất cả 25 đồng chí đồng chí bí thư chi bộ được bồi dưỡng chương trình dành cho cấp ủy, 44 đồng chí đảng viên mới học xong chương trình lý luận phổ thông, bồi dưỡng 5 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh cho 97% đảng viên trong Đảng bộ. Các đồng chí lãnh đạo trong Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đều được học chương trình trung cấp chính trị, một số đồng chí học xong trung cấp quản lý Nhà nước.

Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ kết nạp được 41 đảng viên. Kết quả phân loại có 80% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Đảng bộ liên tục đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh.

Hoạt động của bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến. Thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, địa phương đã sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ đúng quy trình, phù hợp với năng lực cán bộ và bảo đảm tiêu chuẩn, do đó hiệu quả công việc đạt cao hơn.

Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn 2000 - 2005, kinh tế, xã hội ở Thọ Sơn có những bước tiến đáng kể, quốc phòng, anh ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Dẫu còn nhiều khó khăn, thách thức, kể cả khiếm khuyết cần khắc phục, nhưng kết quả trên đã tạo đà để địa phương tiếp tục phát triển.

3.  Tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2005 - 2010

Trong niềm vui chung của những thành tích đạt được nhiệm kỳ qua, tháng 6 năm 2005, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XXII tại hội trường xã. Có 130 đại biểu đại diện cho 225 đảng viên trong Đảng bộ về dự.

Đại hội Đảng bộ lần này diễn ra trong điều kiện tình hình kinh tế đất nước đang thu được những thắng lợi quan trọng. Sau gần 20 năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ trước là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân thực hiện nhiệm vụ giai đoạn mới. Với tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, khách quan, Nghị quyết của Đại hội nêu rõ: Qua 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta còn gặp không ít khó khăn: thiên tai, dịch bệnh nhiều, chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động thiếu việc làm, giá vật tư sản xuất cao, giá nông sản thấp, khó tiêu thụ, một bộ phận nông dân đời sống còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo khá cao... Song với tinh thần nỗ lực, phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong xã, chúng ta đã đạt được những thành tích quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng.

Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm tới là: “Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, phát huy nội lực, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng, nội lực. Cải tạo môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư mọi thành phần kinh tế để tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, thúc đẩy quan hệ sản xuất mới phát triển. Ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ tạo sự đột phá trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Bảo đảm tăng trưởng kinh tế bề vững, bảo vệ môi trường, gắn với giải quyết tốt các vấn đề quốc phòng, an ninh, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể thật sự trong sạch, vững mạnh”.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, đồng chí Bùi Xuân Vui được bầu làm Bí thư, đồng chí Hoàng Long Tiến Phó Bí thư - Trực Đảng ủy xã đồng chí Lê Duy Quý Chủ tịch Ủy bân nhân dân xã làm Phó Bí thư;.

Sau Đại hội, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã dấy lên một tinh thần thi đua sôi nổi, quyết tâm thực hiện mục tiêu Đại hội đề ra. Đảng ủy, chính quyền đã tổ chức cuộc họp chuyên đề, đề ra chương trình hành động nhằm thực hiện nghị quyết Đại hội hiệu quả.

Nhiệm vụ trọng tâm là phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, bền vững, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ. Đẩy mạnh sản xuất vụ đông theo hướng sản xuất hàng hóa. Mạnh dạn đưa những giống có năng suất, có giá trị kinh tế cao vào sản xuất. Coi trọng việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất. Tích tụ ruộng đất để tạo điều kiện cho sản xuất lớn. Thực hiện cơ giới hóa thay dần cho sản xuất thủ công nhằm đưa năng suất lao động lên cao. Coi trọng chăn nuôi, lâm nghiệp nhằm phát triển hiệu quả gắn với bảo vệ môi trường.

Thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo các thôn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, làm cho nhân dân thấy rõ việc tích tụ ruộng đất, bước đầu là dồn điền đổi thửa là bước đi tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, phần đông nhân dân đều tự giác chấp hành. Cũng qua lần điều chỉnh ruộng đất này, địa phương quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015, dành đất cho khu vực dân cư, các công trình phúc lợi như: đất thổ cư, các công trình phúc lợi, giao thông... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Để đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn, Thọ Sơn đã có nhiều chính sách tiếp tục tạo điều kiện cho những gia đình có khả năng về lao động, vốn và ruộng đất phát triển mô hình gia trại, trang trại. Những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sản xuất ở địa phương không ngừng tăng lên. Tuy quy mô sản xuất đã có những thay đổi theo hình thức trang trại, tuy nhiên nhìn chung sản suất nông nghiệp vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, đầu ra khó khăn, phụ thuộc nhiều vào thị trường địa phương, chưa đủ sức vươn xa ra thị trường lớn, nhất là thị trường xuất khẩu. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Đảng bộ đã có những chủ trương tạo điều kiện cho các hộ có khả năng phát triển kinh tế nhận đất, vay vốn, đồng thời có chính sách hỗ trợ để tiếp tục hình thành các gia trại, trang trại và nâng cao hiệu quả kinh tế các trang trại đã có.

Nhìn chung sản xuất giai đoạn này luôn đan cài những thuận lợi và khó khăn. Đặc biệt là thời tiết diễn biến bất thường, dịch bệnh ở đàn gia cầm, gia súc liên tiếp xảy ra… Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Sơn đoàn kết một lòng vững bước vượt qua khó khăn, đưa quê hương ngày càng phát triển, trong đó nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm đạt 12%, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng, trong đó: nông nghiệp tăng 2%, công nghiệp, dịch vụ, xây dựng tăng 20%, thu nhập bình quân đầu người đạt 500 USD.

Cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, nâng dần tỉ trong công nghiệp, dịch vụ, việc làm. Đến năm 2009, tỉ trọng nông nghiệp còn 43%, công nghiệp, xây dựng: 33%; dịch vụ, thương mại: 24%.

Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, năng suất bình quân đạt 11,2 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 1.850 tấn, đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra. Giá trị thu nhập trên diện tích canh tác đạt 53 triệu đồng/ha, bình quân lương thực đầu người đạt 482kg/năm.

Thực hiện Nghị quyết 03-NQ/HU của Huyện ủy Triệu Sơn về phát triển kinh tế vùng đồi, Thọ Sơn tiếp tục chương trình phủ xanh đồi núi trọc, khai thác quỹ đất, khoanh nuôi, chăm sóc, bảo vệ rừng đạt hiệu quả. Duy trì vùng cây công nghiệp với 220ha mía nguyện liệu năng suất bình quân đạt 60 tấn/ha, mở rộng diện tích cây ăn quả tập trung với trên 10ha, cho thu nhập 35 triệu đồng/ha.

Điểm nổi bật trong chăn nuôi giai đoạn này là hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ chuyển dần sang sản xuất hàng hóa, bước đầu xây dựng mô hình chăn nuôi bán công nghiệp. Việc xây dựng 15 trang trại góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh hơn. Đây là những tín hiệu đáng mừng trong việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, cũng như từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn ở địa phương. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn chăn nuôi trên địa bàn gặp không ít khó khăn. Liên tiếp trong một thời gian ngắn xuất hiện các đại dịch như: cúm H5N1 ở gia cầm, dịch lở mồm long móng ở trâu bò, dịch tai xanh ở lợn... đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất của nhân dân. Nhờ làm tốt công tác phòng dịch, như: tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại, phát hiện và tổ chức dập dịch... nên chăn nuôi vẫn ổn định, có mặt phát triển. Đến năm 2010, đàn bò đạt 1.460 con, đàn lợn có 3.000 con, đàn gia cầm có 10.000 con. Nuôi cá, nuôi ong tiếp tục phát triển mạnh cho thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

Sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại tăng trưởng khá. Các ngành nghề, dịch vụ như: sửa chữa, cơ khí nhỏ, xay xát, dịch vụ làm đất, vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng, nghề mộc, nề, làm chổi đót ở xóm 12 tiếp tục phát triển. Giai đoạn này công ty TNHH An Phát chuyên làm đũa, công ty xăng dầu Nam Phương được thành lập và đi vào sản xuất mở ra hướng đi mới về ngành nghề, dịch vụ ở địa phương. Ngoài ra toàn xã có hàng trăm lao động đi làm việc ở nước ngoài và trong nước. Thu nhập, doanh thu từ ngành nghề, dịch vụ, thương mại trên địa bàn đạt trên 25 tỷ đồng mỗi năm.

Các công trình phúc lợi, dân sinh, như: đường giao thông liên xã trị giá 7 tỷ đồng từ chương trình 135, nâng cấp tuyến mương đập Ngô Công, đập Tràn xóm 12, xây dựng trường Mầm Non trị giá 1,4 tỷ đồng, xây dựng trường Trung học cơ sở 2 tỷ đồng, nâng cấp đường điện đảm bảo cho 97% số hộ được dùng điện. Tổng số vốn xây dựng đầu tư cho phát triển đạt 12,5 tỷ đồng.

Kinh tế phát triển, người dân ngày càng có điều kiện hưởng thụ các thành tựu khoa học, kỹ thuật phục vụ nhu cầu giải trí và hiểu biết của con người như: ti vi, xe máy, điện thoại, máy tính... Tuy nhiên, đây cũng là lúc các mặt trái của cơ chế thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Những văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống thực dụng, những biến thái tiêu cực trong đời sống xã hội như: nạnăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tí dị đoan... có điều kiện phát triển. Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa càng trở nên cấp thiết và được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo.

Trong thời gian này, Đảng bộ tiếp tục quan tâm chỉ đạo phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư. Các đơn vị đều đầu tư xây dựng nhà văn hóa, xã có sân thể thao, hàng năm tổ chức các cuộc thi của các đoàn thể, tham gia văn nghệ ở huyện... tạo nên sự hoạt động phong phú ở địa phương. Đặc biệt Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng làng văn hóa mới đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa mới, vừa mang bản sắc địa phương, vừa tiếp thu những yếu tố văn hóa thời đại. Đến năm 2010, có 15/16 làng khai trương xây dựng làng văn hóa. Trong đó có 2 làng được công nhận văn hóa cấp tỉnh, 10 làng đạt làng văn hóa cấp huyện. Số hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa chiếm tỷ lệ 72%, số hộ đạt gia đình thể thao chiếm 30% số hộ trong xã.

Đây là giai đoạn giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với việc tiến hành thay sách giáo khoa, Bộ Giáo dục - Đào tạo chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt, chưa bao giờ thiết bị dạy học được trang bị đầy đủ như giai đoạn này. Nhờ đó, chất lượng giáo dục của các trường được nâng lên một bước. Đến năm học 2007 - 2008, hưởng ứng cuộc vận động Hai không của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong đó có nội dung nghiêm túc trong thi cử, đánh giá học sinh và chống bệnh thành tích trong giáo dục, qua đó chất lượng thật từng bước được nâng lên. Giai đoạn này, Trường Tiểu học có 22 lớp 850 học sinh, Trường Trung học cơ sở có 13 lớp 417 học sinh. Năm học 2008 - 2009, các nhà trường đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, cảnh quan môi trường từng bước được tôn tạo. Nhiều năm cả 3 trường trong xã: Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đạt trường tiên tiếp cấp huyện, được Chủ tịch Ủy bân nhân dân huyện tặng giấy khen.

Hoạt động của trạm y tế xã ngày càng đi vào nền nếp đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trong 5 năm (2005 – 2010) đã khám, điều trị cho hơn 6.000 lượt người. Công tác tiêm phòng cho trẻ luôn đạt kết quả cao, không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra. Đội ngũ cán bộ y tế tích cực tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã xây dựng xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, thực hiện pháp lệnh dân số, an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng dân quân, quân dự bị và lực lượng công an. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” theo Nghị quyết của Chính phủ và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm theo Quyết định 138-QĐ/Ttg của Thủ tướng Chính phủ. Đảng bộ luôn chăm lo xây dựng lực lượng có lập trường tư tưởng và bản lĩnh cách mạng vững vàng, sẵn sàng chiến đấu khi xảy ra chiến tranh, đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của kẻ địch. Đồng thời quản lý tốt quân dự bị, thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ. Hằng năm đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giao quân.

Lực lượng công an luôn được củng cố và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi năm công an xã giải quyết hàng chục vụ việc theo đúng quy định và gửi hồ sơ lên cấp trên giải quyết những vụ việc vượt quá thẩm quyền, ngăn ngừa kịp thời không để vụ việc lớn phát sinh trên địa bàn. Thực hiện Nghị quyết 32/CP của Chính phủ, Nghị định 146/BCA của Bộ Công An và Hướng dẫn 144 của Sở Công an Thanh Hóa về kiềm chế tai nạn giao thông, Ủy ban nhân dân xã đã thành lập tổ kiểm tra việc thực hiện luật giao thông trên địa bàn xã, đặc biệt là trên tuyến đường liên xã, góp phần làm giảm tai nạn giao thông trên địa bàn và làm cho nhân dân ý thức hơn trong việc chấp hành Luật Giao thông. Trên cơ sở Chỉ thị số 10/CT-CTUB của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và Đề án 375 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, địa phương đã thành lập được các tổ an ninh xã hội và tổ an ninh trật tự ở các thôn, góp phần giữ gìn trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Hội đồng nhân dân đã có nhiều đổi mới trong việc tổ chức các kỳ họp và giám sát thực hiện trong các hoạt động quản lý kinh tế, đất đai, hoạt động của các nhà trường, trạm y tế, làng văn hóa, công tác quản lý của Ủy ban nhân dân, trả lời, giải quyết những ý kiến của cử tri có hiệu quả.

Qua việc sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chuyên viên và thực hiện cải cách hành chính ở cơ sở, hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày càng hiệu quả hơn. Trong công tác quản lý, Ủy ban nhân dân xã thực hiện cải cách hành chính, xây dựng quy chế, tác phong làm việc của đội ngũ chuyên viên, cán bộ nhằm hướng tới mục tiêu chuyên nghiệp, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hằng năm, địa phương đều hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh đối với Nhà nước, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đạt hiệu quả. Quy chế hoạt động của Ủy ban nhân dân, Quy chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực hiện tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tăng cường.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở địa phương hoạt động ngày càng hiệu quả. Đây là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện các phong trào ở địa phương như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ nhà dột nát cho người nghèo, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng xã hội học tập, gia đình kinh doanh và sản xuất giỏi... Thông qua đại diện là các đại biểu Hội đồng nhân dân, phát huy tinh thần làm chủ của các hội viên các tổ chức quần chúng, nhờ đó mà phát huy được sức mạnh của cộng đồng trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

Công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho đảng viên được Đảng bộ đặc biệt coi trọng. Đây là giai đoạn các thế lực phản động vẫn điên cuồng chống phá cách mạng nước ta. Thông qua các luồng thông tin ngoài luồng xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng ngày càng nhiều. Qua học tập các nghị quyết của Đảng, các đồng chí đảng viên trong Đảng bộ ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng bộ tiến hành thực hiện cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 06/CT-TW của Bộ Chính trị. Cũng trong thời gian này, Đảng bộ triển khai học tập chuyên đề nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Trong các đợt học tập, Ban Chấp hành Đảng bộ đã chỉ đạo các chi bộ tổ chức cho 100% đảng viên viết đăng ký làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những việc làm cụ thể. Ngoài ra còn tổ chức cho đảng viên, nhân dân tham gia cuộc thi tìm hiểu, tổ chức và tham gia các cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng được nâng lên rõ rệt. Nhiều năm liên tục Đảng bộ đạt trong sạch, vững mạnh.

Nhằm từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch cán bộ, có kế hoạch tạo nguồn, bồi dưỡng bổ sung hàng năm. Giai đoạn này, Đảng ủy đã cử 6 đồng chí cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý và trình độ chính trị. Thực hiện đề án xây dựng chi bộ vững mạnh, chất lượng cơ sở Đảng từng bước được nâng lên. Năm 2005 có 12 chi bộ, đến năm 2010 tăng lên 18 chi bộ, 80% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 21 đảng viên. Việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đã góp phần quan trọng từng bước xây dựng quê hương Thọ Sơn ngày càng giàu mạnh.

III. TIẾN HÀNH THỰC HIỆN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 -2020)

1.                       Thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, ngày 9 tháng 4 năm 2010, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2010 - 2015.

Đại hội đã tiến hành kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ 2005 - 2010, đề ra phương hướng hoạt động nhiệm kỳ mới và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Bùi Xuân Vui được Đảng bộ bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Duy Quý, Phó Bí thư Trực Đảng ủy xã đồng chí Lê Ngọc Quế, Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư.

Đại hội đã nhiệt liệt biểu dương thành tích đạt được thời gian qua, kêu gọi cán bộ và nhân dân trong xã phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, đoàn kết xây dựng quê hương, hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trên quê hương Thọ Sơn, trước mắt là xây dựng xã nông thôn mới. Đồng thời đề ra phương hướng chung của nhiệm kỳ mới là: “Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, tận dụng thời cơ vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển mọi thành phần kinh tế, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, tạo bước đột phá chất lượng, hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Đảm bảo phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững hơn, gắn củng cố quốc phòng, an ninh với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh”.

Với sức mạnh của một vùng quê có truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước và cách mạng, lại được lãnh đạo bởi một tổ chức đảng đã kinh qua nhiều giai đoạn cách mạng, luôn là một Đảng bộtrong sạch vững mạnh, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng, Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kì XXIV đã lãnh đạo nhân dân từng bước vượt qua khó khăn, thử thách và thu được những kết quả rất đáng tự hào. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa - xã hội ngày càng phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và lớn mạnh ngang tầm nhiệm vụ mới. Tuy còn bộn bề gian khó, nhưng những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong xã đạt được trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã tỏ rõ bản chất cách mạng kiên trung, sự đoàn kết vượt qua khó khăn của cán bộ và nhân dân xã nhà.

Một nhiệm vụ trong tâm, bao trùm giai đoạn này là tiến hành xây dựng nông thôn mới. Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Quyết định 1342/QĐ-UBND huyện Triệu Sơn, năm 2011, Thọ Sơn đã xây dựng đề án “Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 - 2020” nhằm phát triển một cách đồng bộ, tích cực, thay đổi một cách căn bản bộ mặt của nông nghiệp, nông thôn cũng như quan điểm nhận thức của người nông dân trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, sự vào cuộc tích cực của hệ thống chính trị, đề án xây dựng nông thôn mới của xã đã thu được kết quả bước đầu đến cuối năm 2015, xã đã hoàn thành được 9/19 tiêu chí.

Qua thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới cho thấy, mặc dù đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng tình hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn của địa phương đã bộc lộ những vấn đề khó khăn của một xã miền núi cần được giải quyết: kiến trúc nông thôn đang phát triển tự phát và thiếu quy hoạch hoàn chỉnh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống; lao động nông thôn còn thiếu công ăn việc làm và thu nhập chưa ổn định; trật tự an ninh trên địa bàn chưa đáp ứng trước nhu cầu đổi mới kinh tế và xã hội... Thực tế ấy đang đòi hỏi phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương đi vào thực chất, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Bám sát Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, Ban Chấp hành đã đoàn kết tạo nên sức mạnh tập thể, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, sự phối hợp, hoạt động hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương quyết tâm hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra. Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện phê bình và tự phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) tăng cường sức chiến đấu của tổ chức đảng sánh ngang với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới; tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp; đổi mới hoạt động của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã dịch vụ điện, nâng cao hiệu quả điều hành của chính quyền, tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ; áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sảnxuất, đẩy mạnh đưa cơ giới hóa, điện khí hóa vào sản xuất.

Mặc dù giai đoạn này sản xuất gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới, trong nước lạm phát tăng cao, đầu ra nông sản, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh trên đàn gia cầm, gia súc, thời tiết diễn biết bất lợi, nhưng kinh tế địa phương vẫn phát triển. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 13,4%, (vượt chỉ tiêu đề ra 1%). Trong đó: nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 9,8% (vượt chỉ tiêu 1,8%); công nghiệp, xây dựng tăng 14,6% (vượt chỉ tiêu 0,9%); dịch vụ tăng 16,8% (vượt chỉ tiêu 1,6%).

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tính đến năm 2015, tỷ lệ nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 36,5%, công nghiệp, xây dựng chiếm 30,6%, dịch vụ, thương mại chiếm 32,9%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 13,25 triệu đồng/năm, đạt mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra.

Trong sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Diện tích đạt gieo trồng đạt 353ha, lúa lai có giá trị kinh tế cao chiếm 90%, năng suất bình quân đạt 5,6 - 6 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 2.119 tấn.

Về sản xuất mía nguyên liệu, sau thời gian phát triển mạnh, giai đoạn này có xu hướng giảm dần vì giá đường xuống thấp do phải cạnh tranh với đường nhập ngoại và do lực lượng lao động trong xã chuyển dần sang làm công nhân tại các xí nghiệp trên địa bàn huyện, tỉnh. Cấp ủy, chính quyền đã chủ động chuyển dần diện tích sang trồng các loại cây khác như: sắn nguyên liệu, keo, cao su, cây ăn quả...

Nhờ có nhiều biện pháp đồng bộ nên sản xuất ở địa phương phát triển khá, tính đến năm 2015, giá trị kinh tế trên mỗi héc ta gieo trồng đạt 63,8 triệu đồng.

Chăn nuôi tiếp tục có sự phát triển theo hướng thị trường, mở rộng sản xuất theo mô hình gia trại, trang trại. Đến năm 2015, toàn xã đã xây dựng được 13 gia trại (1 gia trại chăn nuôi bò, 4 gia trại chăn nuôi lợn, 8 gia trại chăn nuôi gà) cho giá trị hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Đàn trâu bò có trên 1.110 con, đàn lợn có 1.372 con, đàn gia súc gần 2.000 con. Giá trị từ chăn nuôi ước chiếm 35%, giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt kế hoạch Đại hội đề ra.

Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng được quan tâm và thu được kết quả khá, góp phần bảo vệ sinh thái và tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Diện tích đất rừng trồng cây theo dự án WB3 đạt 171,01ha, diện tích trồng keo đạt 250ha, ngoài ra còn trồng các loại cây khác phủ xanh đất trống, đồi trọc. Trên địa bàn xã đã có 2 cơ sở chế biến cây lâm nghiệp góp phần nâng cao giá trị kinh tế đồi rừng.

Công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp có bước tăng trưởng khá theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Toàn xã có 130 cơ sở sản xuất công nghiệp, tăng 13% so với giai đoạn trước. Trong đó có: 15 cơ sở sản xuất đồ mộc, 6 cơ sở sản xuất gạch không nung, 26 cơ sở và 1 hợp tác xã sản xuất chổi đót, 23 cơ sở hàn, nghiền thức ăn gia súc... Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 102 tỷ đồng.

Thương mại, dịch vụ trên địa bàn phát triển mạnh. Toàn xã có 300 cơ sở, tăng 2,9 lần so với năm 2010. Trên địa bàn chợ và khu trung tâm xã nhiều hộ có hàng hóa lên đến hàng tỷ đồng. Toàn xã có 14 ô tô làm dịch vụ vận tải, góp phần lưu thông hàng hóa và mang lại thu nhập cao cho các hộ kinh doanh. Tổng mức hàng hóa bán lẻ năm 2015 lên đến 22,142 tỷ đồng.

Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, các công trình phục vụ sản xuất, phúc lợi xã hội thường xuyên được cải tạo và xây mới. Bằng nguồn vốn hỗ trợ của cấp trên, ngân sách xã và đóng góp của nhân dân, 5 năm qua (2010 – 2015) Thọ Sơn đã  xây dựng các công trình như: xây dựng chợ 2,3 tỷ đồng, sửa chữa nâng cấp trường học 2,7 tỷ đồng, giao thông nông thôn 3 tỷ đồng, các công trình khác 2,7 tỷ đồng, với tổng số tiền 10,2 tỷ đồng. Đây là giai đoạn Thọ Sơn tập trung xây dựng nông thôn mới, mọi nguồn lực xã hội đều được phát huy, nhờ thế đạt được nhiều kết quả khả quan, tổng vốn đầu tư cho đầu tư phát triển đạt 76,25 tỷ đồng.

Công tác chính sách, an sinh xã hội được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, những hộ chính sách, hộ nghèo được chăm lo, giúp đỡ, đảm bảo đầy đủ các chế độ đãi ngộ. Đến năm 2015, số hộ nghèo trong xã còn 16 %.

Văn hóa, xã hội tiếp tục có bước phát triển mạnh cả chiều rộng và chiều sâu. Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ đổi mới”. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đang chuyển dần về chất. Có thêm 2 trường học khai trương xây dựng cơ quan văn hóa. Hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, văn hóa xã hội ngày càng phát triển. Số người tham gia các hoạt động như: câu lạc bộ dưỡng sinh, cầu lông, bóng chuyền... ngày càng đông. Đoàn Thanh niên tổ chức cho thiếu niên vui chơi trại hè. Tỷ lệ gia đình văn hóa hàng năm đạt trên 75%.Thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội được thực hiện nghiêm túc và có chuyển biến đáng kể. Đài truyền thanh hoạt động hiệu quả, trung bình mỗi năm phát được 350 tin góp phần nâng cao dân trí, văn hóa, phổ chiến, tuyên truyền các chủ trường, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đến nhân dân

Giai đoạn này, cả 3 trường Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở đầu triển khai đề án xây dựng trường chuẩn Quốc gia nên cơ sở vật chất các trường được địa phương quan tâm cải tạo. Trường Mầm non đã tổ chức cho các cháu ăn bán trú, Trường Trung học cơ sở được công nhận chuẩn Quốc gia, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng bằng khen. Chất lượng học tập của các trường không ngừng được nâng lên. Năm học 2012 – 2013, đội học sinh giỏi trường Trung học cơ sở vươn lên xếp tứ 3 toàn huyện, có 10 học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó có 1 cháu là học sinh duy nhất của huyện Triệu Sơn đạt giải nhất môn văn hóa cấp tỉnh. Trung tâm giáo dục cộng đồng hoạt động hiệu quả, mỗi năm tổ chức chuyển giao khoa học kỹ thuật được hơn 700 lượt người.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, trung bình mỗi năm trạm y tế khám và điều trị cho hơn 1.000 lượt người. Triển khai hiệu quả y tế dự phòng, tiêm phòng cho trẻ trong độ tuổi đạt 99%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 17%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,85%. Công tác vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, ý thức của người dân từng bước được nâng lên.

Dù nước ta đang trong điều kiện hòa bình nhưng tình hình tranh chấp lãnh thổ, nhất là trên Biển Đông diễn ra ngày càng phức tạp. Ngày 1 - 5 - 2014, Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan HD-981 trên vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam[47]. Trước tình hình trên, Huyện ủy đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng ủy, chính quyền tăng cường củng cố lực lượng dân quân, quân nhân dự bị thường xuyên luyện tập và sẵn sàng chiến đấu cao. Trung bình mỗi năm có 11 - 12 thanh niên lên đường nhập ngũ. Đồng thời, tập trung thực hiện Nghị định 32 của Chính phủ về giảm thiểu tai nạn giao thông, Nghị định 09/CP về chương trình quốc gia phòng chống tệ nạn xã hội. Lực lượng công an thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương. Tổ chức các đợt cao điểm trấn áp tội phạm gắn với phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng đi vào hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.

Thời gian này, Đảng bộ tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, quán triệt trong cán bộ, đảng viên Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Triệu Sơn lần thứ XVI. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, “Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị”... Trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Trọng tâm là khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm, nêu cao tinh thần đấu tranh, tự phê và phê bình, làm rõ trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong việc thực hiệm nhiệm vụ được giao. Các đồng chí cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các đồng chí giữ các chức vụ trong Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể viết bài thu hoạch, thực hiện việc tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, làm chuyển biến tích cực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm, hiệu quả công việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Đảng bộ tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạtđộng của chi bộ theo Chỉ thị số 10-TC/TW của Ban Bí thư. Thực hiện Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 05 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ủy thực hiện tốt công tác quy hoạch nguồn A1, A2 và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho nhiệm kỳ 2015 - 2020. Công tác kiểm ta, phân loại được thực hiện nghiêm túc. Năm năm liên tục, Đảng bộ Thọ Sơn được công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, được cấp trên khen thưởng.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân luôn đổi mới phương thức hoạt động, phù hợp, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao chất lượng hoạt động các kỳ họp, thực hiện tốt chức năng giám sát. Ủy ban nhân dân xã tiếp tục đổi mới công tác quản lý, điều hành, đảm bảo dân chủ, kỷ cương, đồng bộ, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, sâu sát cơ sở. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong điều hành công việc. Triển khai có hiệu quả pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,nâng cao hiệu quả quản lý, tạo môi trường đầu tư, sản xuất của doanh nghiệp và nhân dân. Với sự đoàn kết cao, bằng sự năng động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, sự đồng thuận của nhân dân, chính quyền đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng đưa quê hương Thọ Sơn ngày càng phát triển.

Công tác dân vận và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể ngày càng được đổi mới, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố. Qua các phong trào như: dân vận khéo, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, chung tay xây dựng nông thôn mới, xóa bỏ nhà tranh tre... đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Nhìn lại chặng đường 20 năm thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy, dẫu còn khó khăn, gian khổ, nhưng những gì mà cán bộ nhân dân làm được thật đáng tự hào. Đó là minh chứng sinh động cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên quê hương Thọ Sơn.

2. Một số kết quả trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2015 - 2020

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào giai đoạn kết thúc mục tiêu hoàn thành xây dựng xã nông thôn mới bằng một sự kiện quan trọng. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, ngày  tháng ... năm 2015, Đảng bộ Thọ Sơn long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XV.

Đại hội đánh giá cao những thành tựu mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong thời gian qua, coi đó là tiền đề quan trọng để địa phương tiếp tục vững bước đi lên trong thời gian tới, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới.

Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, đồng chí Hà Long Tiến được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Duy Quý được bầu làm Phó Bí thư - Trực Đảng, đồng chí Lê Ngọc Quế được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy bân nhân dân xã.

Đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ trước, Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ: 5 năm qua, Đảng bộ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV trong điều kiện có nhiều thuận lợi, đó là: tình hình kinh tế - xã hội địa phương ổn định, nhiều cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đi vào cuộc sống, các chính sách an sinh xã hội từng bước đáp ứng yêu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới. Đặc biệt có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, các ban ngành, đoàn thể của huyện Triệu Sơn. Sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ nhân dân các dân tộc trong xã hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trong nhiệm kỳ qua tạo tạo điều kiện để Thọ Sơn phát triển mạnh trong thời gian ngắn làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân.

Bên cạnh thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ như: tình hình chính trị trên thế giới và trong khu vực có những diễn biến phức tạp, việc Trung Quốc đe dọa chủ quyền, an toàn hàng hải ở Biển Đông, san lấp, quân sự hóa một số đảo chìm của Việt Nam bị chúng chiếm đóng trái phép đã đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, kinh tế thế giới chưa thoát khỏi khủng hoảng, khí hậu biến đổi phức tạp, tác động của mặt trái cơ chế thị trường đến đời sống xã hội... Thọ Sơn là một xã miền núi xa trung tâm huyện, xuất phát điểm nền kinh tế thấp, thuần nông, cơ sở vật chất hạ tầng chưa phát triển, mức sống của nhân dân chưa cao....

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, sự năng động, sáng tạo của chính quyền, sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể với những chủ trương, giải pháp chỉ đạo hiệu quả, động viên sức mạnh toàn Đảng bộ và các dân tộc xã nhà đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội Đại hội Đảng bộ đề ra. Kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao; an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.

Đại hội đã rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới. Phương hướng chung của Đại hội nêu rõ: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của chính quyền, hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững; chú trọng chất lượng, hiệu quả và sực cạnh tranh của hàng hóa, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để đầu tư, phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống người lao động, nâng cao chật lượng các hoạt động văn hóa – xã hội theo hướng xã hội hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường công tác quốc phòng –  an ninh; giữ vừng an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh. 

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, cán bộ và nhân dân trong xã vượt mọi khó khăn thách thức, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Với một vùng quê giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, với một Đảng bộ đoàn kết, giàu sức chiến đấu, đội ngũ cán bộ trẻ, năng lực và nhiệt huyết, nhân dân cần cù, sáng tạo, Thọ Sơn đang từng bước hoàn thành mục tiêu Đại hội đề ra, đưa quê hương ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một nhiệm vụ trọng tâm được cả hệ thống chính trị, mọi tầng lớp xã hội tập trung trí lực, vật lực, tài lực, nhân lực để thực hiện là hoàn thành xây dựng nông thôn mới.

Là địa phương có hạ tầng còn nhiều khó khăn, giao thông liên hương dài, qua nhiều địa hình phức tạp, kinh tế nhân dân còn thấp nên việc huy động nguồn lực cho phát triển gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Thọ Sơn cũng những thuận lợi cơ bản: văn hóa xã hội có nền tảng vững chắc từ những năm trước, kinh tế, xã hội đang trên đà phát triển, hệ thống chính trị vững mạnh, đội ngũ lãnh nhiệt tình, năng động, dám nghĩ, dám làm, nhân dân cần cù, có tinh thần cách mạng… tạo điều kiện để Thọ Sơn hoàn thành nhiệm vụ chính trị, cũng như xây dựng nông thôn mới thành công trên địa bàn xã.

 Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, sự năng động, sáng tạo của chính quyền, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, được nhân dân hưởng ứng, đồng thuận, nhiều gia đình đã đóng góp tiền, công, hiến đất để quy hoạch đường giao thông, xây dựng các công trình văn hoá, chỉnh trang nhà cửa phấn đấu cuối năm 2020, Thọ Sơn về đích nông thôn mới.

Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Thọ Sơn đã có những bước đi vững chắc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng tổ chức chính trị vững mạnh, cụ thể:

Về kinh tế:

Sản xuất nông nghiệp: Mặc dù chịu tác động bất lợi của tình hình thời tiết, rét đậm, mưa lụt, ngập úng... nhưng do sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, sự chủ động điều hành, xử lý linh hoạt của UBND đã chỉ đạo nhân dân đã thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật, triển khai có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu giống, thời vụ. Do đó, sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển, năm 2018 diện tích gieo trồng cả 2 vụ đạt 332ha; năng suất 48 - 50 tạ/ha; sản lượng 1.600 tấn. Đáng chú ý là diện tích sản xuất nông nghiệp liên tục giảm qua mỗi năm do chuyển đổi mô hình kinh tế, năm 2017 giảm 23,7ha so với năm 2016, năm 2018 giảm 6,3ha so với năm 2017. Dù diện tích giảm nhưng tổng sản lượng lương thực cũng như giá trị hàng hóa vẫn giữ ổn định và có mặt được nâng lên.

Sản xuất vụ đông vẫn gặp khó khăn do hiệu quả kinh tế thấp, trong khi số lao động đi làm công nhân, làm thợ, dịch vụ ngày càng nhiều, nên diện tích dao động 60 -70ha. Diện tích mía mỗi năm trồng được 62-72ha, sản lượng đạt3.800-4.200 tấn.                                                                                                                                        

 Trong chăn nuôi: Do chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền và phòng chống dịch bệnh cho nên dù giá cả không ổn định, song cơ bản tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng lên. Đến năm 2018, đàn trâu bò có 1.112 con, đàn lợn 1.632 con, đàn gia cầm đạt 22.500 con, tăng 2.200 con so với năm 2017.

Việc phát triển kinh tế đồi rừng được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ngoài việc phát triển các trang trại, bảo vệ rừng tái sinh, qua các năm 2016 – 2018, địa phương trồng mới được hơn 50 ha rừng, riêng năm 2017 trồng được 22 ha. Diện tích sắn 52ha, sản lượng đạt 1.040 tấn, diện tích cây ăn quả 52ha, diện tích cao su 24ha. Trung bình thu nhập từ rừng mỗi năm đạt 1,5 tỷ đồng.

  Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá. Trong điều kiện khó khăn nhưng vẫn duy trì và phát triển cả về quy mô cũng như hiệu quả kinh tế. Đến năm 2018, trên địa bàn có 11 doanh nghiệp, 378 cơ sở hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó có 105 cơ sở hoạt động công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, 6 cơ sở xây dựng, 14 cơ sở vận tải, 209 cơ sở thương mại, 44 cơ sở dịch vụ. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ, thương nghiệp năm 2018 đạt 87 tỷ đồng.

Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng được cấp ủy, chính quyền quan tâm thực hiện. Đây đang là thời điểm bản lề để Thọ Sơn hoàn thành mục tiêu xây dựng xã nông thôn mới vào năm 2020. Tổng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản năm 2017 đạt 6.663 triệu đồng, đạt 308%, năm 2018 đạt 4.969 triệu đồng. Đây đang là giai đoạn địa phương nỗ lực hoàn thành xây dựng nông thông thôn mới nên hàng loạt các công trình được cải tạo và xây mới như: sửa chữa trường tiểu học, xây dựng nhà làm việc và sửa chữa trạm y tế, vận động nhân dân đóng góp bê tông hóa 2,2 km đường giao thông, hệ thốngđường liên thôn, giao thông nội đồng, tu sửa các hạng mục... với giá trị hàng chục tỷ đồng.

Văn hóa - xã hội:

Hoạt động thông tin tuyên truyền – thể dục thể thao có sự khởi sắc. Trong công tác lãnh đạo, Đảng bộ tập trung tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các làng đều có đội văn nghệ tham gia giao lưu, hội diễn ở xã và huyện. Phong trào thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Địa phương đã tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao chào mừng các ngày lễ, ngày kỷ niệm của đất nước, tích cực tuyên truyền mọitầng lớp nhân dân, chung tay xây dựng nông thôn mới.Xã đã tổ chức giải bóng đá phong trào nhân Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 – 9, tham gia và đạt giải cao trong cuộc thi cấp huyện, với 3 giải nhất, 2 giải nhì về điền kinh. Đặc biệt đạt vô địch môn bóng chuyền trong giải bóng chuyền do Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn tổ chức. Duy trì hoạt động của các làng văn hoá theo quy ước và hương ước, tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 85%, thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.

Trong những năm qua, các trường trong xã tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệphóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Chất lượng giáo dục của các trường luôn ổn định và có bước phát triển. Trường Mầm non đã phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia, số cháu đạt tốt, khá chiếm 70,7%. Trường Tiểu học vẫn duy trì tốt chất lượng dạy và học, số học sinh được khen đạt 75,9%. Trường Trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh đậu vào trường PTTH ngày càng cao, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 100%. Các trường giữ vững danh hiệu trường chuẩn Quốc gia.

Hoạt động y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình được duy trì tốt. Trạm y tế mỗi  năm khám và điều trị cho trên 2.000 lượt bệnh nhân. Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng vác xin và uống vitamina đạt 98 - 99%. Qua các đợt kiểm tra để công nhận Trạm y tế được đánh giá là hoàn thành tốt đạt số điểm cao. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,9%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi còn 12,5%.

Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm làm tốt các hoạt động chính sách người có công, cấp phát trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội đầy đủ và kịp thời, đẩy mạnh tuyên truyền nhân dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện đạt 80%. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, các hộ già cả neođơn, các gia đình khó khăn với số tiền mỗi năm trên 22 triệu đồng. Lập hồ sơ đề nghị cấp trên công nhận và thực hiện giải ngân cho 19 gia đình người có công theo Quyết định 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 580 triệu đồng. Địa phương đã tạo điều kiện cho 56 người đi lao động ở nước ngoài tạo nguồn thu đáng kể để các hộ đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 6,44%, hộ cận là 5,76%.

Quốc phòng - an ninh của địa phương được giữ vững. Hằng năm Thọ Sơn luôn hoàn thành nghĩa vụ giao quân với 7 – 12 thanh niên lên đường nhập ngũ. Lực lượng dân quân, quân nhân dự bị tham gia luyện tập nghiêm túc. Tổ chức thành công cuộc diễn tập chiến đấu phòng thủ theo kế hoạch. Công tác xây dựng cụm xã an toàn, làm chủ tiếp tục được tăng cường, duy trì nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu, đề cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, không để để lúng túng, bất ngờ.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được quan tâm thường xuyên và phát huy hiệu quả ở các địa bàn dân cư. Địa phương tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 10 và đề án 375 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, duy trì có hiệu quả tổ an ninh trật tự, tổ liên gia tự quản.

Một nhiệm vụ được coi là then chốt, có tính quyết định đến thắng lợi của mọi phong trào cách mạng của Thọ Sơn là xây dựng tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Ban Chấp hành Đảng bộ hết sức chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ và nhândân. Tổ chức học tập, triển khaikịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương (khóa XII) đến toàn thể cán bộ, đảng viên. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng bộ đã chủ trương quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 cùng với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnhhọc tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhận thức chính trị, tư tưởng, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Trong tổ chức thực hiện, cấp ủy, chính quyền coi trọng phương châm:nói đi đôi với làm, kết hợp chống và xây, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao. Qua kiểm tra đã kịp thời bổ sung, uốn nắn và chấn chỉnh một số đảng viên, chi bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và Điều lệ Đảng.

Công tác xây dựng chính quyền có những bước tiến vững chắc. Hội đồng nhân dân hoạt động ngày càng hiệu quả trong việc tiếp xúc cử tri, tổ chức các kỳ họp, ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, giám sát tổ chức thực hiện của các tổ chức kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong địa phương.

Ủy ban nhân dân đã điều hành, đẩy mạnh việc thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn; thực hiện tốt các giải pháp tiết kiệm chi tiêu, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân chủ cơ sở, làm tốt công tác quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực..

Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều phong trào và hình thức hoạt động đa dạng để vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thực hiện tốt vai trò đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội và xây dựng chính quyền theo Quyết định 217, 218 QĐ/TW, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân. Là trung tâm tập hợp các tổ chức đoàn thể góp phần xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, tổ chức thực hiện có hiệu quả ngày vì người nghèo, ngày đại đoàn kết toàn dân tộc; phối hợp với các ngành, đơn vị tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: hỗ trợ, giúp đỡ các gia đình nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, tham gia ủng hộ đồng bào miền Trung bị hạn hán, lũ lụt.

Một nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là xây dựng thành công xã nông thôn mới. Tính đến cuối năm 2018, địa phương đã đạt 13/19 tiêu chí. Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân trong xã còn hết sức nặng nề. Đảng bộ xác định: xây dựng nông thôn mớiphải trở thành phong trào rộng khắp trong cả . Dân chủ cơ sở được nâng cao hơn, ý thức và trách nhiệm làm chủ của người dân từng bước được nâng lên. Qua đó đã phát huy được nhiều cách làm sáng tạo góp phần huy động  nguồn lực đóng góp cho xây dựng nông thôn mớiKết quả bước đầu của phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương khẳng định: Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đang trở thành hiện thực sinh động trên quê hương Thọ Sơn. Là tiền đề quan trọng để cán bộ và nhân dân trong xã đưa quê hương phát triển cao hơn trên chặng đường cách mạng mới.

Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, kinh tế - xã hội ở địa phương tiếp tục phát triển và thu được kết quả rất đáng tự hào. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn được thể hiện sinh động trong phát triển kinh tế - xã hội, bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 20 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã thu được những kết quả rất đáng tự hào. Trong quá trình thực hiện, Đảng bộ và nhân dân đã gặp không ít khó khăn, thách thức. Là một xã miền núi, mức sống của nhân dân còn thấp, bằng nội lực của mình, được sự giúp đỡ của cấp trên, sản xuất ở Thọ Sơntừng bước phát triển. Sản lượng lương thực ở địa phương không ngừng tăng lên, cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng, phong phú, giá trị kinh tế ngày càng cao. Ngành nghề, dịch vụ, thương mại phát triển phá thế độc canh cây lúa, làm đa dạng nguồn thu của địa phương. Trong phát triển kinh tế, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự xuất hiện của điện, cơ khí đang dần thay thế lao động thủ công cho thấy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đang trên đà khởi sắc. Văn hóa - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ cách mạng của địa phương. Bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống ấm no, hạnh phúc đang hiển hiện sinh động trên mảnh đất Thọ Sơn giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn dài, nhưng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn chắc chắn sẽ vượt qua mọi khó khăn, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng và văn minh.

KẾT LUẬN 

Thọ Sơn là một xã miền núi, nằm ở phía tây của huyện Triệu Sơn. Xưa kia, đây là vùng rừng, cây cối rậm rạp, nên không mấy thuận lợi cho sản xuất. Vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những cư dân đầu tiên đã tìm đến đây lập nghiệp, khai phá rừng hoang, dựng nhà, dựng cửa, tạo nên nương sắn, ruộng lúa. Trong quá trình sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã đủ loại, cộng đồng dân cư từng bước được hình thành, đồng thời tạo nên những giá trị văn hóa, tinh thần phong phú, góp phần tạo dựng nên cốt cách của người Thọ Sơn hôm nay.

Đó là nền tảng, cội nguồn, để khi gặp lí tưởng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Thọ Sơn nguyện một lòng theo Đảng, đứng lên xóa bỏ xiềng gông, đòi lại quyền sống, quyền làm người, góp phần cùng nhân dân cả nước lật đổ chế độ thực dân phong kiến trong Cách mạng tháng Tám, xây dựng nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cách mạng tháng Tám thành công, cùng với cả nước những người Cộng sản và nhân dân Thọ Sơn đứng trước muôn vàn khó khăn. Vận mệnh Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài lăm le lật đổ chính quyền non trẻ. Nạn đói ngày càng nghiêm trọng; văn hóa, xã hội hết sức lạc hậu; dân trí vô cùng thấp kém... Chính quyền cách mạng vừa bảo vệ thành quả cách mạng, vừa tiến hành diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, đẩy mạnh thi đua sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã phải công nhận nền độc lập của ba nước Đông Dương, nhưng ngay sau đó, nước ta lại phải đương đầu với đế quốc Mỹ, một thế lực hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược do Đảng đề ra: góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Không sợ gian khổ hy sinh, cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân cả nước, nhân dân Thọ Sơn vừa đẩy mạnh sản xuất chi viện cho chiến trường miền Nam, vừa anh dũng giáng trả không quân Mỹ khi chúng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong những ngày tháng năm ấy nhân dân Thọ Sơn vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Những hạt gạo nghĩa tình từ đồng đất Thọ Sơn vẫn hối hả ra tiền tuyến, những thanh niên Thọ Sơn vẫn nô nức “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, để rồi khi non sông thu về một mối, Bắc - Nam ca khúc khải hoàn, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn có quyền tự hào về những đóng góp của mình trong chiến công chung của dân tộc.

Đất nước thống nhất, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững vàng vượt qua những năm tháng gian nan với những khó khăn do chiến tranh để lại, đồng thời cùng nhân dân cả nước sẵn sàng giáng trả bọn phản động Pôn Pốt, bọn xâm lược Trung Quốc bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc, giữ vững an ninh chính trị, đẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân xã nhà đã vận dụng linh hoạt đường lối đổi mới của Đảng vào thực tế địa phương, từng bước đưa sản xuất phát triển. Từ một vùng quê người dân thiếu đói quanh năm, Thọ Sơn vươn lên thành một địa phương thâm canh lúa, tổng sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, phát triển kinh tế đồi rừng trở thành thế mạnh của địa phương.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn càng được phát huy cao độ. Kinh tế của địa phương có bước phát triển mới, từ một nền kinh tế thuần nông đến nay tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm trên 50% tổng thu nhập của xã. Các công trình phúc lợi như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ngày càng thêm khang trang, hiện đại. Những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều, thay thế dần những mái tranh ẩm thấp trước kia. Khu trung tâm xã trở thành phố xá với những công ty, đại lý, cửa hàng có giá trị hàng tỷ đồng. Cuộc sống mới đang đâm chồi nẩy lộc trên vùng quê Thọ Sơn giàu truyền thống yêu nước.

Từ một vài đảng viên ban đầu, đến nay Đảng bộ Thọ Sơn đã có 277 đảng viên, giữ vai trò quyết định trong mọi thắng lợi của phong trào cách mạng trên địa bàn xã. Trong quá trình dựng xây và phát triển của mình, Đảng bộ đã rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm không ngừng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng:

Một là: Quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

Hai là:Coi trọng việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng để nâng cao sức chiến đấu, giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng. Chăm lo xây dựng chi bộ, coi chi bộ thực sự là “hạt nhân” của Đảng, qua đó giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên.

Ba là: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao. Coi trọng công tác quy hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để có đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu hiện tại và tương lai.

Bốn là: Phát huy dân chủ trong Đảng, xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, nhất là trong đội ngũ lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở, coi trọng quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Năm là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo lợi ích về tinh thần, vật chất và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, nhằm tạo nên phong trào cách mạng rộng khắp, động viên sức người, sức của vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở địa phương, phát huy truyền thống của quê hương, nhân dân Thọ Sơn cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng, kiên trung trong chiến đấu. Với những thành tích đạt được hơn 60 năm dựng xây, phát triển, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng thành công xã nông thôn mới, vươn lên giành thành tích to lớn hơn nữa, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi công cuéc ®æi míi do §¶ng khëi x­íng vµ l·nh ®¹o.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Trước kia làng Bứa, làng Pheo, Bái Đề vốn là làng của người Mường, do dân số ít nên số hộ người kinh từ các nơi đến ngày càng nhiều.

([2]). Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà nội 1981.

([3]). Theo sách Đồng Khánh địa chí dư tập 2 của Quốc sử quán triều Nguyễn.

Lưu ý: xã, thôn, ấp, giáp, tộc, sở, phường đều được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở, tương đương với đơn vị làng. Đơn vị hành chính xã mãi sau CM Tháng Tám mới được hình thành.

([4]). Giai đoạn trước năm 1954 chưa có địa danh Thọ Sơn, chúng tôi dùng “Thọ Sơn”, hay “các làng của Thọ Sơn” để thay cho việc kể tên từng làng.

[5] Thực ra thôn là cách gọi làng theo tên chữ.

[6]Từ “pheo” dùng để chỉ cây tre vốn là một từ của người Kinh Mường cổ, nay chỉ còn người Mường dùng

[7] Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Dịt Dàng (vua) trong Đẻ đất đẻ nước chính là vua Hùng.

[8] Người Kinh và người Mường có chung nguồn gốc từ người Việt Mường.

[9] Khu vực ở các xã Tân Phúc (Nông Cống), Đồng Thắng (Triệu Sơn) cũng có một trang trại lớn do bà Bành (là vợ Nguyễn Chích) phụ trách.

[10] Lịch sử Thanh Hóa tập IV, NXB Khoa học xã hội hà nội 2008, tr 72.

[11] Dẫn lại theo sách Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp của PGS.TS Nguyễn Trọng Văn, NXB Thanh Hóa 2012, tr 47.

[12] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tập 1, NXB Thanh Hóa 200, tr 33.

([13]) Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Thiệu Hóa, năm 1936 đồng chí Trịnh Khắc Sản là Tỉnh ủy viên.

[14] 50 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Sự Thật 1979, tr 73

[15] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Hà nội 1995, tr 152.

[16]Hồ Chí Minh toàn tập.SĐD. tr 8.

[17]Hồ Chủ tịch với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa 2007, tr 14.

[18] Hồ Chí Minh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuấn bản Sự thật Hà Nội, 1970, tr 67.

[19]Từ tháng 2 năm 1948 đổi thành Ủy ban kháng chiến hành chính xã (bỏ chữ kiêm).

[20] Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ và nhân dân Thanh Hóa, SĐD, tr 19.

[21] Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa, SĐD, tr 15

[22] Số tiền, thóc trên chủ yếu do các gia đình nhà giàu, phú hào trong xã ủng hộ. Điển hình là gia đình ông Đoàn Hợi dân tộc Thái ở làng Nác Nã, có căn nhà gác 12 gian, trâu bò hàng trăm con (người dân kể là nhiều không đếm xuể), đã tích cực ủng hộ, trâu bò, bạc trắng cho kháng chiến.

([23]). Bác Hồ với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá. SĐD tr 8.B

([24]) Bác Hồ với Thanh Hoá- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, 1990, tr15.

[25] Từ ngày 10 - 9 - 1955 đổi thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

[26] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận chính trị 2004, tr 183.

([27]). Trường Chinh: Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp - NXB Sự thật 1960-tr 57.

[28] Tính cả các kỳ Đại hội chi bộ xã thì đây là Đại hội lần thứ VII.

[29] Tuyên bố của Cơ –ti Lơ – may (Cutris Lemay), tham mưu trưởng không quân Mỹ.

([30]) 3 giỏi: sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, làm giao thông giỏi.

([31]). 3 khoán, 3 quản: Khoán lao động, khoán công điểm, khoán sản phẩm; quản lao động, quản kế toán, quản tài chính.

[32] Còn gọi là xe cải tiến, là loại xe 2 bánh sắt bọc cao su (không có xăm, lốp), thùng gỗ, 1 người kéo đi trước, 1 người đẩy phía sau.

([33]). Lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch tại Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964 tại Hà Nội.

[34] Lần thứ nhất 7/2/1965-1/11/1968; lần thứ 2: 16/4/1972

[35] Xã Định Công, huyện Yên Định là điển hình tiên tiến về phát triển toàn diện nông thôn ở miền Bắc.

[36]Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2004, tr 308.

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, tr 110.

[38] Học 3 ca: 1 phòng học dùng cho 3 lớp, mỗi lớp 1 buổi (sáng, trưa, chiều).

([39]) Mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thuỷ được xác định là vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc 1984-1989. Trong vòng 4 tháng (4/1984 - 8/1984), Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc. 

 

[40] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, SĐD, tr 292.

[41] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật Hà Nội, 1987, tr 42.

([42])(2)[42]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1996. tr 67.

 

[44] Lịch sử Đảng bộ huyện Triệu Sơn, NXB Thanh Hóa 2005, tr 182.

([45]) (2) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam SĐD tr 308.

 

 

 

 

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ THỌ SƠN

Đăng lúc: 02/03/2020 10:14:41 (GMT+7)

LÍCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ THỌ SƠN

 

VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

 

I.KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XàHỘI

1. Điều kiện tự nhiên

Thọ Sơn là một trong 3 xã miền núi, nằm ở phía tây của huyện Triệu Sơn, cách trung tâm huyện khoảng18 km cách thành phố Thanh Hóa khoảng33kmvới diện tích tự nhiên 1.173ha, trong đó: đất nông nghiệp: 673ha, đất lâm nghiệp: 215ha, đất trồng cây công nghiệp: 318ha. Phía bắc giáp Nông trường Sao Vàng và xã Xuân Thắng huyện Thọ Xuân; phía đông giáp xã Thọ Cường và xã Thọ Tiến; phía nam giáp xã Thọ Bình; phía tây giáp xã Bình Sơn.

Địa hình thổ nhưỡng:

Trên bản đồ tự nhiên Thanh Hóa, Thọ Sơn nằm ở vùng chuyển tiếp của đại ngàn phía tây giàu có về sản vật và vùng đồng bằng trù phú phía đông của tỉnh. Chính vì vậy địa hình của Thọ Sơn tương đối phức tạp xen kẽ các dạng địa hình đồng bằng, vùng bán sơn địavà miền núi,

Đi từ trung tâm huyện Triệu Sơn về xã, trên đất Thọ Cường vẫn còn cảm giác như đi giữa biển lúa vàng rực hai bên đường. Vượt qua gianh giới giữa Thọ Cường và Thọ Sơn đến làng Bái Đề, làng Pheo vẫn còn cảm giác cảnh quê của vùng đồng bằng, nhưng vườn tược hai bên đường đất đã nhuốm màu nâu đỏ (một loại đất đặc trưng của vùng bán sơn địa) và ngước mắt nhìn về phía tây đã thấy dăng dăng những dãy núi trước mặt trong mờ sương. Từ công sở xã tiếp tục đi về phía tây cảnh vật liên tục thay đổi. Những cánh đồng thu nhỏ dần rồi chỉ còn những khu đồng nhỏ nằm kẹp giữa các đồi núi. Thực chất đây là những thung lũng núi được người dân khai phá, cải tạo để trồng lúa nước. Trên đường đi đến làng Nác Nả thì núi tiếp núi, đồi tiếp đồi hiện ra ngày càng rõ nét hơn. Trước Cách mạng tháng Tám thì đây còn là rừng rậm hoang vu với nhiều tre nứa, gỗ quý, chim muông, khỉ, vượn…. Lọt thỏm giữa màu xanh đại ngàn là những nếp nhà sàn của người Mường, người Thái và sau này có thêm nhà của người Kinh trên các sườn núi.

Là xã miền núi, nên trên địa bàn Thọ Sơn có nhiều đồi núi như: Đông Đình, Đông Cao, Đông Dốc Đất, Đông bờ Tây Keo Ranh, núi đá vôi, Ngô Công, Ngọc Mép… Đây là một phần của dãi núi trung du từ dãy núi phía tây của tỉnh như: Ngọc Lặc, Lang Chánh, Thường Xuân kéo trườn thấp xuống các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn… Chính vì vậy, từ vùng đồng bằng nhìn lên thấy cả một hệ thống núi kéo dài như một bước trường thành khổng lồ.

Do vị trí nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng nên thành phần thổ nhưỡng ở Thọ Sơn khá phong phú. Ở các làng phía đông của xã như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa chủ yếu là đất phù sa không được bồi đắp hàng năm do các đợt biển tiến, kết hợp với đất phong hóa của vùng đồi núi được tích tụ hàng triệu năm mà thành. Các làng phía tây của xã như Nác Nảcó thành phần thổ nhưỡng điển hình của vùng miền núi. Trên các đồi núi chủ yếu là đất nâu đỏ, nâu vàng được hình thành trên đá mác ma-bazơ trung tính. Dưới chân núi là những cánh đồng trồng lúa nước thuộc nhóm đất lầy thụt. Nhóm đất này có lượng mùn cao, nghèo ka li, đất thường chua do ngập úng quanh năm nên khi sản xuất cần phải cải tạo nhiều.

Ở Thọ Sơn không có những cánh đồng trải dài mà được ngăn bởi những đồi núi, làng mạc. Đối với các làng phía đông, đồng trải dài trước, hoặc sau làng, các làng phía tây của xã thì những cánh đồng lúa nước thường men theo các thung lũng núi.

Đất đồi núi chiếm diện tích khá lớn. Trước đây, khi rừng chưa bị tàn phá đất ở đây tương đối tốt, thảm thực vật dày với nhiều gỗ qúy, chim, thú phong phú. Đây là loại đất thuận tiện cho cây công nghiệp dài ngày, khi đất bị rửa trôi giảm chất mùn thường phát triển thành rừng với những loại cây gỗ và cây bụi, nay được nhân dân trồng rừng, chủ yếu là các loài cây chịu được hạn như: keo lá tràm, bạch đàn, phần đất có độ dốc nhỏ hơn thì trồng cây ăn quả và cây công nghiệp, như: chè, dứa, mía...

Nếu tính theo độ dốc, theo trắc địa gần đây thì:

Đất có độ dốc dưới 150 có 238ha chiếm 20%.

Đất có độ dốc 15 - 200 có 502ha chiếm 42%.

Đất có độ dốc trên 200 có 453,73ha chiếm 38%.

Với tình hình phân bố thổ nhưỡng và địa hình như vậy, cho thấy việc sản suất lúa nước ở đây gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng Thọ Sơn lại thuận lợi để phát triển nền kinh tế nông lâm nghiệp kết hợp với nhiều loại cây trồng và vật nuôi phong phú.

Khí hậu:

Thọ Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đặc điểm chung của kiểu thời tiết này là ngoài việc phân hóa theo vĩ độ còn chịu tác động sâu sắc của hai mùa gió trên một nền nhiệt và ẩm phong phú.

Từ tháng 5 đến tháng 10 là thời kỳ hoạt động mạnh của gió mùa Đông Nam, còn gọi là gió nồm, có nguồn gốc là khối không khí hải dương nên mang nhiều hơi nước. Đây là một trong những tác nhân quan trọng khiến mùa này có lượng mưa lớn nhất trong năm. Vào khoảng tháng 8, tức là tháng 7 âm lịch có dải hội tụ nhiệt đới vắt ngang qua, Thọ Sơn thường có kiểu thời tiết đặc biệt, khi tạnh khi mưa, khiến nhân dân ta liên tưởng đến mối tình dang dở của vợ chồng nhà Ngâu. Một kiểu thời tiết khác là bão, thường có sức gió mạnh kèm theo mưa lớn, có tác hại tàn phá nhà cửa, mùa màng ghê gớm. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng lại xuất hiện những đợt gió Lào có tính chất khô nóng. Tuy tần suất không nhiều nhưng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây cối và sinh hoạt của nhân dân.

Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là thời gian hoạt động mạnh của gió mùa Đông Bắc, còn gọi là gió bấc. Đây là khối khí lục địa, xuất phát từ vùng Xi-bi-ri và Trung Á, có tính chất khô lạnh, trùng hợp với thời kỳ khô lạnh ở địa phương. Chính sự xuất hiện của gió mùa khiến nhiệt độ giảm xuống mạnh, đôi khi chỉ trong 24 giờ giảm xuống 100C. Tuy nhiên, sự phân chia thời gian như trên chỉ là tương đối, vì bản thân thời tiết luôn có tính chất thất thường. Nhiều năm tháng 10 đã xuất hiện những đợt gió mùa Đông Bắc, ngược lại có khi đến tháng 6 vẫn chưa có lụt tiểu mãn, điển hình là năm 2010, tháng 7 vẫn còn bị hạn, các hồ thủy điện không tích đủ nước dẫn đến thiếu điện trên diện rộng. Giữa hai mùa là thời kỳ chuyển tiếp có thời tiết tương đối dễ chịu. Giữa mùa Đông và mùa Hạ là mùa Thu. Từ tháng 2 đến tháng 4 trước khi có lụt tiểu mãn thường có mưa phùn, đôi khi tạo nên kiểu mưa thâm, gió bấc rất đặc trưng của khu vực. Dân gian gọi là rét Nàng Bân. Do địa hình miền núi nên mùa này ở Thọ Sơn thường xuất hiện nhiều sương mù, là kiểu thời tiết rất đặc trưng của miền núi, trung du. Giữa mùa hạ và mùa Đông là mùa Thu. Từ giữa tháng 10 đến tháng 11 thời tiết mát mẻ, dễ chịu, nhưng nhiều năm vẫn còn mưa lớn, bão, thoảng hoặc xuất hiện những đợt không khí lạnh trà về nhưng cường độ yếu. Nhìn chung khí hậu ở Thọ Sơn thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp lúa nước với nhiều sản vật nhiệt đới phong phú, bên cạnh đó lại xuất hiện những giống cây từ ôn đới nhập về do sự xuất hiện của một mùa đông giá lạnh như: cà chua, cải bắp, súp lơ, khoai tây, các giống hoa...

Thủy văn:

Thọ Sơn không có con sông tự nhiên nào lớn chảy qua, chỉ có hệ thống khe suối từ trên núi chảy ra. Lớn nhất là suối Hón Cùn – khe Chạp chảy từ vùng núi phía tây về qua Bao Lâm (Bình Sơn) có tên là Hón Lày – Cây Bi chảy vào hồ đập Dốc Đất về Thọ Bình, Thọ Sơn gọi là Hón Cùn. Ngoài hồ Dốc Đất, Thọ Sơn còn có hồ Ngọc Mép, hồ Ngô Công. Trong đó hồ Ngô Công lớn nhất với diện tích 41ha, lưu lượng nước khoảng 1,5 triệu mét khối nước. Ngoài các hồ trên cung cấp nước cho sản xuất, Thọ Sơn còn có hồ Phú Vơng là hồ tự nhiên rộng trên 3 mẫu nay đang được nhân dân Bái Đề và làng Pheo cấy lúa kết hợp nuôi thả cá. Trên địa bàn xã còn có chi giang 6 đi qua, hệ thống ao hồ nhỏ dùng để giữ nước và nuôi cá. Với diện tích 160ha ao hồ, Thọ Sơn được coi địa phương có mặt nước lớn của huyện Triệu Sơn.

Nhìn chung, thủy văn Thọ Sơn không mấy thuận tiện cho sản xuất. Trước đây, mỗi khi có mưa lớn nước từ trên núi đổ về tàn phá hoa màu, nhà cửa, giao thông… Từ những năm 1960, Thọ Sơn tiến hành đắp đập ngăn các khe suối thành hồ vừa để ngăn lũ ống, lũ quét, vừa giữ nước để phục vụ sản xuất. Đó là những công trình minh chứng cho lòng quả cảm, sức sáng tạo của cán bộ và nhân dân trong xã trong việc chế ngự thiên tai, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Hệ thống giao thông:

Là một xã miền núi, từ thời xa xưa, việc đi lại của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đường làng, ngõ xóm nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, mưa xuống là lầy lội, bẩn thỉu. Làng này qua làng nọ chủ yếu men theo các triền núi, bờ ruộng, rừng rú, cây cối rậm rạp, lại sợ rắn rết thú dữ nên rất khó đi. Từ khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp đưa nhân dân vào làm ăn tập thể, hệ thống giao thông nội thôn, liên hương mới được chú ý cải tạo nhưng nhìn chung còn rất khó khăn, lạc hậu.

Những năm gần đây từ khi có phong trào xây dựng làng bản văn hóa, sau đó là phong trào xây dựng nông thôn mới nhân dân đã tự nguyện đóng góp, cùng với ngân sách xã và sự hỗ trợ của Nhà nước, địa phương đã tiến hành tu bổ hệ thống giao thông, cải tạo, đắp mới các tuyến đường. Đến nay các tuyến đường vào làng, hệ thống đường thôn xóm đều được mở rộng, đổ bê tông khiến bộ mặt làng quê ngày một khang trang, sạch đẹp. Tuyến đường liên xã từ trung tâm huyện qua các xã phía dưới về xã được đắp từ những năm 70 của thế kỷ XX, từ năm 2008 được rải nhựa. Từ năm 2017 được đưa vào sử dụng chạy qua trung tâm xã, Thọ Sơn từ một xã miền núi đi lại khó khăn trở thành một địa phương có giao thông thuận tiện. Đây là cơ hội để địa phương phát triển kinh tế - xã hội, ở địa phương.

2. Dân cư và hệ thống chính trị:

Dân cư:

   Trước Cách mạng tháng Tám, dân số Thọ Sơn chỉ chưa đầy 1.000 người. Đến năm 2019, toàn xã có 5.335 người, trong đó nam chiếm 49,7%, nữ chiếm 50,3%. Số lao động đã qua đào tạo chiếm 21%.

Về thành phần dân tộc, có 3 dân tộc chính gồm:

Dân tộc kinh chiếm 55,4%.

Dân Tộc Mường chiếm 36,9%.

Dân Tộc Thái chiếm 7,7%.

Phân bố dân cư chủ yếu theo đơn vị làng bản. Dân tộc Mường, dân tộc Thái có 416 hộ tập trung nhiều ở các làng: Đồng Ao, Nác Nã, Đồng Sang, Đồng Cốc, Ngô Công… Dân tộc kinh chủ yếu ở các làng: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa, Đông Thành và các làng còn lại[1]. Tuy nhiên, trên thực tế có sự xen cư của các dân tộc trên cùng một làng tạo thành thể thống nhất, đoàn kết.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), nhất là khi hệ thống giao thông phát triển, nhiều hộ có xu hướng mua đất làm nhà ra khu trung tâm hình thành các khu dân cư mới, sự phân bố dân cư không còn khép kín sau lũy tre làng.

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, dân số tăng nhanh do điều kiện y tế tốt hơn, cùng với số dân từ nơi khác đến sinh sống do chủ trương xây dựng kinh tế miền núi của Nhà nước vì vậy dân số tăng nhanh.

Những năm gần đây, chất lượng dân số ngày một được nâng lên, tuy nhiên tỉ lệ lao động chưa được đào tạo còn khá lớn, bởi vậy bài toán giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động đang được chính quyền địa phương và các cấp, các ngành cấp trên chú ý giải quyết.xa. Hiện nay công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng phát triển, nhiều nhà máy, xí nghiệp xuất hiện trên địa bàn huyện, nhiều người Thọ Sơn đã trở thành công nhân ở đây theo xu thế “ly nông bất ly hương”.

Về tín ngưỡng: nhìn chung dân cư ở Thọ Sơn không theo tôn giáo nào rõ rệt, nhưng ảnh hưởng của đạo Phật, đạo giáo, đan xen với tín ngưỡng của dân tộc Mường, dân tộc Thái vẫn song song tồn tại. Trong các gia đình hiện nay đều thờ cúng thổ công và thờ cúng gia tiên.

Hệ thống chính trị

Tổ chức Đảng

Đến đầu năm 2019, Đảng bộ Thọ Sơn hiện có 277 đảng viên, được tổ chức thành 11 chi bộ. Số đảng viên ở các chi bộ như sau:

          Chi bộ 1: 24 đảng viên.    

          Chi bộ 2: 31 đảng viên.

          Chi bộ 3: 35 đảng viên.   

          Chi bộ 4: 29 đảng viên.

Chi bộ 5: 43 đảng viên.

Chi bộ 6: 33 đảng viên.

Chi bộ Trường THCS: 18 đảng viên.

Chi bộ Trường Tiểu học: 23 đảng viên.    

Chi bộ   Trường Mầm Non: 9 đảng viên.

Trong những năm qua, Đảng bộ luôn đạt trong sạch, vững mạnh. Tỉ lệ đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ luôn đạt cao, luôn tiên phong trong các phong trào ở địa phương, có sức lôi kéo quần chúng tham gia hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, xây dựng quê hương giàu mạnh.

Đảng bộ Thọ Sơn luôn là một Đảng bộ mạnh, có sức chiến đấu cao, là trung tâm khởi xướng, lãnh đạo và tạo dựng các phong trào cách mạng, đưa địa phương từ một xã nghèo khó vươn lên giành nhiều thành tích trong phát triển kinh tế - văn hóa, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.

Tổ chức chính quyền.

Với phương châm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng bộ hết sức coi trọng công tác xây dựng chính quyền, coi đây là nhân tố quyết định đểmọi chủ trương, đường lối của Đảng trở thành hiện thực sinh động trên mảnh đất Thọ Sơn.

Từ thực tiễn cách mạng ở địa phương, Đảng bộ phát hiện, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Coi việc xây dựng đội ngũ có ý nghĩa then chốt trong việc xây dựng chính quyền.

Liên tục trong nhiều năm nay, Hội đồng nhân dân  và Ủy ban nhân dân ngày càng làm tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở. Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc ra Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, điều hành, quản lý của Ủy ban nhân dân ngày càng hiệu quả, khoa học sát với thực tế địa phương, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc  xã là tổ chức chính trị tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp với các tổ chức xã hội trong địa phương tiến hành cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, cuộc vận động ngày vì người nghèo, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới”... đã mang lại hiệu quả to lớn trong đời sống cộng đồng.

Các đoàn thể: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... của Thọ Sơn luôn là đơn vị mạnh của huyện, đạt được nhiều thành tíchxuất sắc trong công tác, được huyện khen thưởng nhiều lần.

Qua mấy chục năm xây dựng, tổ chức Đảng, hệ thống chính trị của Thọ Sơn đã từng bước trưởng thành, lãnh đạo nhân dân xây dựng quê hương ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Ngày nay đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước mắt là hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

3. Lịch sử hình thành cộng đồng dân cư

Lịch sử hình thành và phát triển của xã Thọ Sơn luôn gắn liền với lịch sử huyện Thọ Xuân và huyện Triệu Sơn. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra)”, được biên soạn vào thời Gia Long([2]), thời gian này huyện Thọ Xuân có tên là huyện Lôi Dương có 10 tổng, 139 xã, thôn, trang, sở, vạn, ấp. Đến thời Đồng Khánh (1858 - 1888), huyện Lôi Dương có 9 tổng gồm 221 xã, thôn, tộc, sở, trang, vạn, ấp([3]). Trước Cách mạng Tháng Tám, phủ Thọ Xuân có 10 tổng, 180 thôn, làng, 24 bản. Các tổng gồm: Bái Đô, Mục Sơn, Diên Hào, Kiên Thạch, Tam Lộng, Nam Dương, Bất Nạo, Phú Hà, Quang Yên, Thượng Cốc.

Các làng của Thọ Sơn lúc bấy giờ thuộc tổng Tam Lộng và tổng Kiên Thạch([4]).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23 - 11 - 1945, Chính phủ có sắc lệnh bỏ đơn vị tổng, thành lập đơn vị hành chính xã, xã Thọ Sơn được thành lập trên cơ sở các làng truyền thống trên địa bàn xã ngày nay. Năm 1948, Chính phủ có chủ trương sáp nhập các xã nhỏ thành xã lớn, xã Thọ Sơn sáp nhập với xã Duy Tân (Thọ Ngọc) và xã Đoàn Kết (Thọ Cường) thành xã Thọ Ngọc.

Tháng 9 năm 1954, Thọ Ngọc (cũ) được chia thành 3 xã là: Thọ Sơn, Thọ Cường, Thọ Ngọc (mới). Xã Thọ Sơn có các làng gồm: Hữu Cựu, Tiên Sơn, Bái Đề, làng Pheo, Bạ Thôn (nay là làng Bứa, Ngô Công và làng Hông Vai (Xuân Thắng), Đồng Ao, Đồng Sang, Nác Nã…

Từ năm 1960, Nhà nước ta có chủ trương điều chỉnh dân số các vùng miền, đưa dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi, số hộ lên cấy cư ở các làng Thọ Sơn tương đối nhiều, trong đó hình thành các làng mới như: Đồng Cốc, một phần Ngô CôngCũng có đơn vị dân cư mới được thành lập gần đây như: Liên Sơn (phát sinh từ Đồng Công), Phú Sơn (khu vực chợ), Tân Sơn, Trung Sơn (khu vực trung tâm xã)…

Thực hiện Quyết định số 177CP ngày 16/12/1964 của Hội đồng Chính phủ điều chỉnh lại địa giới Thọ Xuân, Nông Cống, 13 xã phía nam huyện Thọ Xuân được nhập cùng 20 xã phía bắc của huyện Nông Cống để thành lập huyện Triệu Sơn. Từ tháng 2 - 1965, tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền huyện Triệu Sơn đi vào hoạt động. Từ đây Thọ Sơn trực thuộc huyện Triệu Sơn.

Giai đoạn xây dựng hợp tác xã nông nghiệp toàn xã đã thành lập các đội sản xuất ở các làng (những làng lớn có thể 2 - 3 đội), vai trò của hợp tác xã rất lớn nên đội sản xuất trở thành đơn vị cấp dưới của cả hợp tác xã và UBND xã. Thời kỳ này thường lấy tên đội sản xuất (được đặt theo số thứ tự) trong các văn bản của xã.

Năm 1991, UBND tỉnh Thanh Hóa có Quyết định 787/QĐ-UB về việc thành lập thôn, cùng với việc bầu chức danh thôn trưởng, từ các đội sản xuất được chuyển thành các thôn.

Năm 1993, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có Quyết định 33 về việc xây dựng làng văn hóa, sau đó là Nghị quyết Trung ương 5 về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc thì các làng truyền thống được coi trọng hơn.

Cho đến giữa năm 2018, Thọ Sơn có 16 đơn vị dân cư, vẫn được gọi là làng gồm: Bái Đề, Phú Sơn, làng Pheo, là Bứa, Trung Sơn, Đồng Thành, Đồng Ao, Đồng Chiêm, Hữu Cựu, Đồng Cốc, Nác Nã, làng Tiên, Đồng Sang, Tân Sơn, Ngô Công, Liên Sơn.

Cuối năm 2018, thực hiện Quyết định 3110/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 7 - 8 - 2018 về việc đổi tên; chuyển đổi thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Thọ Sơn tiến hành sáp nhập các làng nhỏ thành 8 thôn gồm:

- Thôn 1 gồm làng Bái Đề và làng Bứa.

- Thôn 2 gồm làng Phú Sơn và làng Beo.

- Thôn 3 gồm làng Tiên và làng Trung Sơn.

- Thôn 4 gồm Làng Tân Sơn và Đông Thành.

- Thôn 5 gồm làng Đồng Ao và làng Đồng Chiêm.

- Thôn 6 gồm làng Ngô Công và làng Liên Sơn.

- Thôn 7 gồm làng Hữu Cựu và làng Nác Nã.

- Thôn 8 gồm làng Đồng Cốc và làng Đồng Sang[5].

Có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư nơi đây đã trải qua nhiều thế kỷ. Trong sách Đồng Khánh Địa chí dư được xuất bản từ thời nhà Nguyễn thì đã thấy xuất hiện tên làng Tiên, làng Hữu Cựu và một số làng của Thọ Sơn thuộc tổng Tam Lộng. Chắc chắn cư dân Thái Mường đã có mặt trên đất Thọ Sơn khá sớm. Theo lịch sử truyền thống của các làng, cũng như các giai thoại, truyền thuyết liên quan đến Lê Lợi thì làng Bái Đề được hình thành sớm nhất cách đây chừng 500 - 600 năm. Tuy nhiên, cũng có đơn vị dân cư hình thành gần đây nhất làng Đông Thành chỉ mới có tên chính thức khi khai trương xây dựng làng văn hóa vào năm 2018. Riêng tên xã Thọ Sơn xã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

 II. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

1.     Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo

Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo là mạch nguồn xuyên suốt bao thế kỷ nay từ khi có con người đến mảnh đất Thọ Sơn khai hoang lập nghiệp. Có thể nói truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Thọ Sơn gắn liền với quá trình mở đất lập làng. Qua khảo cứu tên làng, tên đất, phong tục tập quán, dòng họ… dễ dàng nhận thấy vùng đất Thọ Sơn có 2 luồng di dân chính. Một luồng từ phía tây, chủ yếu là người Mường, người Thái tràn xuống từ rất sớm, chiếm lĩnh khu vực đồi núi thấp và trung du rồi tràn xuống các cánh đồng chân núi như khu vực làng Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa[6]… Luồng thứ hai đến muộn hơn là người Kinh từ các xã, huyện miền xuôi, thậm chí từ các tỉnh ngoài Bắc vào, từ Nghệ An ra trên đường tìm đất lập nghiệp đã tìm đến mảnh đất này.

Có một điểm chung của hai nhóm cư dân này là tinh thần quật cường, quả cảm, dám chấp nhận thử thách, rời làng đi tìm vùng đất mới. Trong quá trình khai phá vùng đất mới là một quá trình dấn thân đầy mạo hiểm. Có người vì chống cường quyền, áp bức, hay bất đắc chí với xã hội đương thời tìm về miền đất rừng núi này thấy chốn bình yên. Có người phận hèn, thân yếu, không có nổi miếng đất cắm dùi, phiêu bạt về đây sinh sống. Có người không cam chịu cảnh nghèo, thích phiêu du, có tầm nhìn xa, trông rộng, quyết ở lại để lập nghiệp, bởi thấy được tiềm năng còn ẩn chứa trên vùng đất “rừng thiêng nước độc” này. Cũng có người đến chơi, mến cảnh, mến người, mà nên dâu, nên rể rồi ở lại thành quê.

Từ một vài hộ ban đầu rồi trở thành cụm dân cư, thành làng bản là bài ca bất tận về truyền thống lao động của bao thế hệ người Thọ Sơn. Với ý chí của người dấn thân đi mở đất, với truyền thống lao động cần cù đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành cuộc “di cư” tìm lập quê mới.

Sống ở vùng đất không thuận lợi về sinh hoạt, sản xuất, đã rèn rủa cho họ một tinh thần lao động cần cù, siêng năng, tần tảo.

Thuở xa xưa, toàn bộ vùng đất Thọ Sơn này còn là rừng núi hoang vu, với rừng thiêng, nước độc, với bao câu truyền rùng rợn về ma rừng, thần núi. Trước Cách mạng Tháng Tám, trên các ngọn núi trong vùng vẫn còn nhiều các loại cây gỗ qúy hàng trăm năm tuổi, xen lẫn vô vàn các loại thực vật của miền nhiệt đới. Các loại thú dữ như hổ, báo, lợn rừng, hay khỉ, vượn... cũng đã từng có mặt trên các đồi núi khu vực này. Toàn bộ mảnh đất các làng Thọ Sơn đang sống hôm nay, nằm trong ngút ngàn màu xanh của cây cối. Trên các gò cao gồm nhiều loài thực vật, nổi lên cao là các cây cổ thụ. Dưới khu đất bằng cây cối rậm rạp, với nhiều loài thú dữ với bao rắn rết đủ loại.

Bằng lòng quả cảm, những cư dân đầu tiên đến đây đã chặt cây làm nhà, vỡ đất để trồng sắn, khoai, gieo lúa nương, đặt bẫy săn thú. Quá trình phát triển của cộng đồng dân cư ở Thọ Sơn luôn gắn liền với rừng và đất. Từ rừng, người ta khai thác sản vật phục vụ cho cuộc sống, từ đất, những nương ngô, nương sắn, vạt ruộng lúa nước đầu tiên ra đời. Cho nên, tìm hiểu truyền thống lao động của người Thọ Sơn không thể tách rời hai yếu tố này. Không phải ngẫu nhiên mà các làng ở đây lại có nghề truyền thống như: đan lát, nghề mộc, sơn tràng và nhiều nghề khác lấy nguyên liệu từ rừng.

Trong quá trình phát triển, lâm sản bị khai thác ngày càng cạn kiệt, những sản vật từ rừng ít dần, đời sống ngày càng khó khăn, thay vào đó là những ruộng lúa nước, nương ngô được hình thành, thì nghề nông là nghề chính của nhân dân nơi đây. Làm nghề nông ở Thọ Sơn trong điều kiện hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên luôn chịu cảnh hạn hán vào mùa khô, ngược lại vào mùa mưa nước từ ba bề núi theo các khe suối đổ về cướp đi bao mồ hôi, công sức thì cực nhọc vô cùng. Hoa màu bị mất, ruộng đất bị rửa trôi, bạc màu, người nông dân lại kiên trì cải tạo đất, chuẩn bị cho một mùa gieo cấy mới, dù vẫn bấp bênh, không ăn chắc.

Trên vùng đất đầy khó khăn ấy, bao thế hệ người Thọ Sơn đã cần mẫn cấy từng giẻ lúa, trồng từng ngọn khoai, hom sắn, đồng thời từng bước chế ngự thiên nhiên qua việc khơi mương, đắp đê chắn lũ. Từ vùng rừng cây cối rậm rạp, biến thành các xứ đồng với những mùa vàng bội thu hôm nay, người Thọ Sơn đã đổ bao công sức và trí tuệ. Mỗi tên đất, tên đồng như: Hấp Khang, Cồn De, Nổ Lạch (làng Pheo), Thọ Ngao, Thọ Voi, Cồn Trọng, Cồn Công, Đám Hát (Bái Đề), Hấp Cá, Cồn Tế (làng Bứa), Hón Cùn, Mã Đề (Nác Nã)… không những chỉ là địa danh cho dễ nhớ, dễ gọi mà còn là dấu ấn của truyền thống lao động của cư dân ở đây.

Từ những khe suối đưa lũ ống, lũ quét về mùa mưa lũ, với đôi tay cầm cuốc, cầm mai, đôi vai chai sạn gánh từng gánh đất, thậm chí đội cả thúng đất trên đầu dòng rã cả năm trời để đắp đập tạo thành hồ nước mênh mông rộng tới hàng chục nghìn mét vuông. Giờ đây những hồ đập Dốc Đất, Ngọc Mép, Ngô Công luôn ăm ắp nước mỗi mùa mưa về để tưới cho ruộng đồng khi mùa khô đến. Đó không chỉ là những công trình thủy lợi mà còn là bài ca về truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của người Thọ Sơn.

Bởi thế, mặc dù điều kiện tự nhiên luôn bất lợi cho sản xuất nông nghiệp, người Thọ Sơn lại biết biến những bất lợi trên thành nguồn sống khác. Đối với người dân Thọ Sơn trước đây, ngoài nông nghiệp, làng nào cũng biết khai thác lợi thế từ rừng. Việc đi rừng lấy măng, kiếm củi, đốt than, lấy các sản vật từ rừng để phục vụ đời sống, hay bán kiếm tiền mua gạo đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ người dân. Có thể nói, trước đây sơn tràng cũng là một nghề mang lại thu nhập đáng kể cho một số gia đình.

Ngoài các nghề trên, người dân các làng ở Thọ Sơn đều có các nghề phụ như: trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, đan lát, làm mộc... Tuy nhiên, các nghề trên chiếm tỷ lệ lao động không lớn, chủ yếu phục vụ trong gia đình, giá trị hàng hóa không cao.

2. Truyền thống văn hóa

Từ xa xưa, nhân dân Thọ Sơn đã tạo dựng cho mình một truyền thống văn hóa đặc sắc, vừa mang đậm văn hóa lúa nước của người kinh, vừa có sự giao thoa văn hóa Thái Mường với những lễ tục, lễ hội vô cùng phong phú và đa dạng. Truyền thống ấy được hình thành và phát triển trong quá trình mở đất, dựng làng, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú giữ, giặc dã đủ loại để tồn tại và phát triển.

Dễ thấy, trước đây các làng truyền thống của người Kinh ở Thọ Sơn đều có đình chùa, đền miếu phản ánh đời sống tâm linh của dân làng trong nền văn minh lúa nước. Tìm hiểu việc thờ thành hoàng ở các làng của người kinh như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa…đều thấy nhân dân tôn thờ những nhân thần như: Cao Sơn là người khởi binh chống lại nhà Đường (Trung Quốc), bà Đề là người phụ trách trang trại sản xuất lương thực của nghĩa quân Lê Lợi, hay những người có công khai canh mở đất, lập làng, hoặc những thiên thần như thần núi với ước nguyện cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang, vật thịnh.

  Ở các làng có cộng đồng người Mường, người Thái thường không xây dựng đình làng, nhưng cũng có ngôi nhà sàn truyền thống là nơi sinh hoạt của cộng đồng. Nhà lang của người Mường được coi là đại diện cho người nhà trời nên kiến trúc vừa mang đậm nét truyền thống, vừa quy mô, bề thế hơn dân thường. Kiến trúc nhà của người Mường không dùng kỹ thuật ghép mộng mà gác lên nhay được kết nối bằng thang chặn. Cột, xà luôn tròn, đẽo gọt bằng rìu, không bào nhẵn hay đánh bóng.

Người Mường không thờ thành hoàng làng như người Kinh. Chỉ có nhà lang mới thờ một chiếc ngai tượng trưng cho quyền lực nhà trời. Cũng chỉ nhà lang mới được dùng các đồ dùng bằng đồng và giữ dàn cồng chiêng của người Mường. Cồng chiêng là vật linh thiêng dùng để kết nối con người với thần linh. Vậy nên chỉ được vang lên trong lễ hội và khi nhà lang về trời. Sau này thì có biến tấu đi nhiều, cồng chiêng còn được sử dụng trong cưới xin của dân thường. Trong sử thi Đẻ đất, đẻ nước có một đoạn kể vua Dịt Dàng sai thợ đúc trống đồng để dùng và chia cho các nhà lang.

Ngoài các công trình lớn như đình, chùa, nhà lang, nhiều làng ở Thọ Sơn còn có đền, miếu. Các công trình kiến trúc của người xưa trên đất Thọ Sơn do sự tàn phá của thời gian, do suy nghĩ ấu trĩ của con người nên không còn nữa, chỉ còn lại trong tâm thức của những người cao tuổi. Xin được ghi lại để thế hệ mai sau hiểu thêm những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của làng quê.

Về tín ngưỡng: nhìn chung đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân Thọ Sơn khá phong phú, đa dạng. Ngoài những nét chung như: thờ thổ công, thờ gia tiên, người Kinh có tục thờ thần ở các đền miếu, thờ thành hoàng ở đình, các thiên thần, hoặc nhân thần tại các đền. Chưa tìm thấy làng nào có chùa thờ Phật, cũng như văn chỉ, tuy nhiên ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, đạo giáo trong đời sống cộng đồng còn khá rõ.

Người Mường và người Thái ở xen cư với người Kinh (mà người Kinh ngày càng chiếm số đông), nên tín ngưỡng, phong tục tập quán có sự pha trộn, giao thoa nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung tín ngưỡng của người Mường ở Thọ Sơn theo đa thần giáo, tin vào thuyết vạn vật hữu linh. Người Thái quan niệm thế giới có 3 tầng: trời, đất, nước và mọi vật đều có linh hồn. Tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc, Ấn độ ít có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh người Mường và người Thái.

Lễ tục, lễ hội ở Thọ Sơn tương đối phong phú do mỗi dân tộc có những tục lệ khác nhau. Đối với người Kinh chủ yếu do từ nơi khác nhập cư về nên có những nét chung với văn hóa đồng bằng Bắc Trung bộ. Thọ Sơn không có lễ hội quy mô lớn, nhưng phần lớn các làng truyền thống đều có hội làng, chủ yếu liên quan đến tục thờ cúng ở đình, chùa. Sau phần tế lễ là đến phần hội với các trò chơi dân gian như: chọi gà, chơi đu, đấu cờ, thi nấu cơm...

Đối với cộng đồng người kinh, thường thì vào rằm tháng giêng các làng tổ chức tế lễ. Hôm ấy làng mổ lợn, dựng cờ phướn để cúng chúng sinh. Những năm trời làm khô hạn thì làm lễ cầu mưa, mong cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Ngoài ra còn có nhiều tục lệ liên quan đến nông nghiệp như: lễ thượng điền, lễ hạ điền, lễ ăn cơm mới, tết giết sâu bọ (mùng 5 tháng 5), cúng bánh chưng, bánh dầy ngày tết...

Đối với cộng đồng người Mường, người Thái thì ngoài một số tục lệ chung với người Kinh, thì mỗi dân tộc có cả một kho tàng lễ tục, lễ hội đồ sộ. Chỉ riêng việc làm vía hết năm, hay cưới xin, tang lễ…đã chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian.

 Nói đến cộng đồng người Thái, không thể không nói đến lễ hội Khua Luống. Khua luống là loại hình diễn xướng dân gian thường từ 8 đến 10 người tham gia, trong đó có một người làm cái và một người có nhiệm vụ giữ nhịp. Công cụ cho một cuộc diễn gồm loóng giã gạo và “co xạc” (tức cái chày giã gạo). Trong một hội diễn, người khua luống thường đứng chia đều hai bên thành loóng, cầm những chiếc chày vừa giã vừa khua vào thành loóng, tạo thành âm thanh rộn rã.Khua luống ở người Thái thường được tổ chức trong những dịp vui như: lễ rước dâu trong đám cưới, hay khi tết đến, xuân về. Trong đám rước dâu của người Thái, tiếng chiêng và tiếng khua luống là tín hiệu của niềm vui, cũng là lời báo hiệu đối với người đi đường và làng bản sắp có đám rước dâu đi qua. Khi đoàn rước dâu về gần đến nhà trai, người ta sẽ khua luống để chào đón cô dâu và họ nhà gái bằng những nhịp điệu rộn ràng gấp gáp. Cùng với đó là tiếng chiêng đón chờ. Không gian biểu diễn của khua luống thường gắn với những tục lệ rước dâu, cưới xin của người Thái và nó diễn ra ở dưới mái nhà sàn. Trong dịp tết, vào đêm ba mươi, trai gái khua luống gọi là sinh hoạt văn nghệ đón năm mới. Trai gái bản thường tụ tập tại những nhà có đông con gái con trai và có cái loóng đẹp nhất, kêu vang xa nhất, cùng nhau khua luống. Tuy cộng đồng Người Thái ở Thọ Sơn không lớn lắm nhưng Cách mạng tháng Tám những đám cưới, hoặc này tết trước vẫn duy trì khua luống. Vào mùa Xuân, người Thái ở Thọ Sơn tham gia lễ hội lễ hội tại hang Lãm (xã Tân Thành, huyện Thường Xuân). Đây là dịp để trai gái gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Ngoài cửa hang tổ chức ném còn, khua luống…

Tương tự như cộng đồng người Thái, cộng đồng người Mường có hát xường, lễ hội Pôồn Pông. Lễ hội Pôồn Pôông cũng là dịp để nam thanh, nữ tú trong mường (làng) vui vầy. Hình thức nghệ thuật diễn xướng tinh tế này đã tạo nên nét riêng biệt của cộng đồng người Mường, cuốn hút người xem hòa mình vào các trò chơi, trò diễn dân gian. Lễ hội bôồn pôông của người Mường Thọ Sơn được tổ chức hằng năm vào các ngày Rằm tháng Giêng, hay mùa gặt gọi là lễ hội mùa mừng cơm mới. Trong văn hóa người Mường, cây bông (cây hoa) là vật trung tâm của lễ hội cũng như là biểu tượng của vũ trụ bao la. Những lời hát trong pôồn pôông vẫn lời xướng tự do là chủ yếu - cách đối đáp tay đôi giữa thần thánh với con người (Ậu Máy - chủ lễ hội, đại diện cho thần linh và trai gái), qua đó là tình cảm trai gái, vừa thiêng liêng thánh thần vừa vui vẻ, dân dã...

Văn học dân gian ở Thọ Sơn tương đối phong phú. Từ xưa, nhân dân vẫn truyền tụng những câu ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất, răn dạy đạo lí, lối sống cho con cái. Hiện các câu nói về sinh hoạt, văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Thọ Sơn còn khá phong phú. Các truyện kể dân gian kể nhiều về các giai thoại về Bà Triệu, Lê Lợi, phong trào Cần Vương, hay những chuyện cổ tích có pha chút thần thoại, bí ẩn về rừng, núi, những câu chuyện liên quan đến các địa danh cụ thể ở địa phương, như: trại Bà Đề, đồng Thọ Voi, đồng Đám Hát, tên làng Bái Đề...

Đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa dân tộc, trước đây từng lưu truyền khá phổ biến ở Thọ Sơn là sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của cộng đồng người Mường. Đối với cộng đồng người Thái cũng như cộng đồng người Mường ông mo (tạm gọi là thầy cúng) có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần. Tác phẩm “Đẻ đất, đẻ nước” được các ông mo đọc trong tang lễ (có thể xem như bài cúng dài) của người Mường. Nhưng vượt qua lễ tục tang lễ, “Đẻ đất, đẻ nước” thực sự là một sử thi đồ sộ có nhiều bản, bản dài nhất tới 8.000 câu, được coi là một tác phẩm dân gian đặc sắc của Việt Nam và thế giới. Hiện tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông.

Với 38 chương (rằng), Đẻ đất đẻ nước kể lại lịch sử người Mường từ khi “dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời”, sau đó trời đất, con người và muôn loài sinh ra. Con người đầu tiên (Đá Cần) tạo ra vật chất, của cải. Tác phẩm cung cấp cho ta một bức tranh dân tộc từ khi trời đất, con người sinh ra. Rồi đẻ ra đất, ra nước, tạo ra muôn vật, từ đó sinh ra 1919 mường, sinh ra Dịt Dàng (vua), sinh ra nhà lang, tiếp đó học cách làm ra lửa, làm ra rượu, làm nhà lang (xây dựng triều đình), đúc trống đồng, chống giặc ngoại bang… Tất cả sự việc kể trên đều gắn với thần linh, nhà trời được kể bằng giọng đọc truyền cảm, đầy “linh thiêng” của thầy mo nên tác phẩm luôn hấp dẫn người nghe[7].

Trước đây ở Thọ Sơn vẫn có các ông mo thực hiện tang lễ, cũng như cưới xin, làm vía của cộng đồng người Mường, người Thái. Sau này không còn ai nữa, khi cúng bái tiễn đưa người chết, cũng như lễ tết, làm vía, muốn làm đúng thủ tục phải lên Xuân Thắng và các xã vùng trên mời thầy mo về. Tuy vậy, vì mo tiêu (Đẻ đất, đẻ nước) phải mo 12 đêm mới hết, nên chỉ nhà lang mới thực hiện đầy đủ, còn các gia đình bình thường chỉ đọc mo vải ngắn hơn.

Khái quát vài nét như vậy để thấy đời sống tinh thần, văn hóa dân gia, lễ tục, lễ hội dân gian ở Thọ Sơn vô cùng đặc sắc, phong phú. Ngày nay, thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII), nhân dân Thọ Sơn đang gạn đục, khơi trong, khôi phục những giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Truyền thống yêu quê hương, đất nước

Tình yêu quê hương, đất nước là truyền thống lâu đời của làng quê Thọ Sơn. Từ xưa, mỗi khi ông mo “mo” Đẻ đất đẻ nước là dịp giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần bất khuất cho các thế hệ con cháu. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “vua Dịt Dàng” trong Đẻ đất đẻ nước chính là hiện thân của vua Hùng Vương[8]. Tìm hiểu lịch sử các làng cho thấy nhiều làng thờ những người có công với nước, như thần Cao Sơn, bà Đề, hay những người có công khai đất, lập làng làm thành hoàng. Qua việc tôn thờ các vị nhân thần này để tỏ lòng biết ơn, đồng thời cũng là để giáo dục, nhắc nhở thế hệ đang sống và muôn đời sau phát huy truyền thống yêu nước của quê hương.

Trên địa bàn Thọ Sơn ngày nay còn lưu lại dấu ấn chứng tỏ nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy từng hoạt động. Tương truyền trong một lần hành quân qua đây, voi của Lê Lợi bị sa lầy ở khu đồng làng Bái Đề, các cụ bô lão trong làng đã hiến kế rồi huy động sức dân cứu được, chính vì vậy làng đặt tên cánh đồng là Thọ Voi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, với kế sách đánh lâu dài làm địch suy yếu rồi mới phản công, Lê Lợi đã cử người về nhiều vùng ở Thọ Xuân, Nông Cống xây dựng các trang trại sản xuất lúa gạo, nuôi bò, lợn để cung cấp cho nghĩa quân. Trên địa bàn xã Thọ Sơn và các xã trong khu vực đã được khai phá để xây dựng một trang trại lớn do một người phụ nữ phụ trách. Nhớ công ơn bà, khi thắng lợi Lê Lợi đã sắc phong cho dân làng lập đền quanh năm hương khói thờ bà. Nhân dân trong vùng gọi là đền bà Đề[9]. Hiện nay chưa tìm được tên tuổi những người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng chắc chắn, đất và người Thọ Sơn đã có những đóng công sức nhỏ bé trong chiến công chung của dân tộc quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập, tự chủ cho Tổ quốc.

Cuối thế kỷ XIX, trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, năm 1885, vua Hàm Nghi đã ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc Pháp. Thanh Hóa là quê hương của nhà Nguyễn nên phong trào Cần Vương diễn ra mạnh mẽ. Trên địa bàn huyện Triệu Sơn ngày nay có hàng loạt căn cứ khởi nghĩa ra đời ở các xã. Trên địa bàn xã Thọ Cường, Thọ Sơn ngày nay đã có một căn cứ của nghĩa quân Cần vương chống Pháp. Thọ Sơn là vùng quê có truyền thống yêu nước, nhân dân lại nặng lòng “Trung quân, ái quốc”, nên các văn sĩ và trai tráng trong các làng nô nức hưởng ứng phong trào. Từ các làng Hữu Cựu, làng Tiên, Nác Nã, Đồng Sang… cho đến các làng ít dân đinh nhất đều hưởng ứng hịch cứu nước của nhà vua đứng lên cứu nước, cứu nhà. Dưới sự lãnh đạo của các cụ cao tuổi, trai tráng trong làng sắm sửa vũ khí như: dáo, mác, kiếm, sung kíp, gậy gộc… ngày đêm luyện tập sẵn sàng chiến đấu. Có những người rời làng tham gia nghĩa quân ở căn cứ Vân Đồn (thuộc vùng Tứ Hợp), còn phần lớn luyện tập tại địa phương tham gia những trận đánh lẻ tiêu hao sinh lực địch. 

Sau khi tham gia đánh thành Thanh Hóa thất bại,  nghĩa quân Cần Vương rút xuống căn cứ Ba Đình (Nga Sơn) tiếp tục kháng chiến. Các nghĩa sĩ vùng miền núi theo Hà Văn Mao tiếp tục kháng chiến.

Sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, giặc Pháp đã cho quân về nhiều làng bắt bớ, chém đầu những người tham gia nghĩa quân, đốt nhà cửa, đình chùa, cướp của. Người bị chết, nhà cửa bị cháy, nhưng ngọn lửa hung tàn của bọn giặc Pháp không thiêu cháy được tinh thần yêu nước của nhân dân Thọ Sơn, chỉ chờ có dịp là bùng lên thành ngọn lửa đốt sạch xiềng gông, áp bức.

Chính vì vậy, khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân Thọ Sơn đã tích cực tham gia các tổ chức quần chúng cách mạng như: hội biến tướng, hội tương tế ái hữu, đòi quyền dân sinh, dân chủ và vùng lên lật đổ chế độ thực dân phong kiến trong Cách mạng Tháng Tám.

Cách mạng thành công, nhân dân Thọ Sơn lại cùng với cả nước tiến hành cuộc trường kì kháng chiến, đánh Pháp, đuổi Mỹ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, cùng cả nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống bọn bành trướng Trung Quốc bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tinh thần yêu nước ấy của lớp lớp cha ông đang được các thế hệ người Thọ Sơn nâng niu, giữ gìn và phát huy ở thời đại mới, sẵn sàng cùng quân và dân cả nước đập tan mộng xâm lược của kẻ thù nếu chúng dám xâm phạm vùng trời, vùng biển, hải đảo và từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.

Với một vị trí đặc biệt, nằm giáp gianh giữa đại ngàn phía Tây của Thanh Hóa với vùng đồng bằng, Thọ Sơn thuộc vùng núi thấp và bán sơn địa của huyện Triệu Sơn. Trước kia, đây là vùng đất không mấy thuận tiện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Trải qua nhiều thế kỷ, bao thế hệ người Thọ Sơn đã cần cù lao động, biến vùng rừng núi hoang vu thành nương ngô, bãi sắn, những cánh đồng trồng lúa. Trong quá trình lao động, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, nhân dân nơi đây đã tạo dựng nên nhiều giá trị vật chất và tinh thần phong phú, đó là nền tảng, là sức mạnh để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vượt mọi khó khăn, hoàn thành sự nghiệp cách mạng trên quê hương yêu dấ

Chương II

THAM GIA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁPXÂM LƯỢC (1930 - 1954)

I.                      PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN GÓP PHẦN GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1930 - 1945)

1.                       Tình hình kinh tế - xã hội Thọ Sơn dưới ách thống trị của thực dân Pháp

Năm 1858, chiến hạm của thực dân Pháp từ ngoài biển nổ súng đánh vào Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn lúc đầu có một số hoạt động chống Pháp, nhưng sau dần thỏa hiệp, đầu hàng. Trước tình hình trên, phái chủ chiến trong triều đình, đứng đầu là Tôn Thất thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Quảng Trị, tại đây nhà vua đã ra chiếu Cần Vương chống Pháp. Trên địa bàn cả nước hàng loạt cuộc khởi nghĩa nổ ra chiêu tập nghĩa binh chống Pháp. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, các cuộc khởi nghĩa trên lần lượt thất bại. Sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, thực dân Pháp bắt tay vào cai trị nước ta.

  Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng chia nước ta thành 3 kỳ có một chế độ khác nhau. Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ, nằm trong chế độ bảo hộ, về danh nghĩa, triều đình nhà Nguyễn có quyền cắt cử quan lại ở Trung Kỳ, nhưng trên thực tế quyền cai trị đều vào tay người Pháp.

  Ở phủ Thọ Xuân, đứng đầu là tri phủ, một số nha giúp việc là đề lại, lục sự, thừa phái, gọi theo thứ tự: thầy nhất, thầy nhì, thầy ba. Tri phủ kiêm nhiệm việc xét xử các vụ án. Về an ninh, quân sự, có một lệ mục, gọi là đội lệ chỉ huy một tiểu đội lính tuần sai, có vũ khí, có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ và một tiểu đội lính lệ do việc phục dịch và để sai phái công việc.

  Ở tổng Tam Lộng, đứng đầu có chánh tổng (còn gọi là cai tổng), sau chánh tổng là phó tổng. Từ năm 1930, có thêm một đoàn trưởng phụ trách 10 đội phu, chuyên lo an ninh, chính trị, chủ yếu là để đàn áp các phong trào cách mạng. Đến năm 1940, có thêm một phó tổng phụ trách nông nghiệp.

Dưới làng, xã có hội đồng hương lý, gồm: lý trưởng và ngũ hương. Đối các làng người Kinh có các chức danh: lý trưởng: phụ trách chung; hương bạ: giữ sổ sách, trông coi việc sinh tử, giá thú; hương dịch: trông coi việc đồng điền; hương kiểm: lo việc an ninh, trật tự; hương mục: lo việc đê điều, đường sá, huy động lao động công ích, phu chen tạp dịch; hương bản: giữ quỹ công (tiền, lúa). Một số làng có rừng có thêm hương lâm, trông coi việc bảo vệ, khai thác rừng. Ngoài ra còn có trương tuần, trông coi việc tuần tra canh gác. Ở các làng người Thái, người Mường, đứng đầu là thổ ty (quan lang), ngoài ra còn có những người giúp quan lang quản lý bản, mường như: cai giáp, quyền mường…

  Người Pháp lợi dụng bộ máy cai trị ở các làng bản để phục vụ cho chính sách bóc lột của chúng. Toàn quyền PaulDoumer đã tuyên bố: “Cơ cấu của làng xã An Nam cần được duy trì để phục vụ cho chính sách cai trị của chúng ta được dễ dàng. Chính phủ có thể muốn và được thỏa mãn bất cứ điều gì của nhân dân, bằng cách thỏa thuận với đại biểu các làng xã”[10]. Cho nên ngay từ đầu, chúng đã tranh thủ cộng tác với gia cấp phong kiến, địa chủ cường hào, dụ dỗ họ như: thăng quan, tiến chức, hưởng các bổng lộc. Đối với hàng ngũ chánh, phó tổng, lý trưởng, chúng ban phẩm hàm, kim tiền, kim triều, mề đay (huân chương). Đối với dân, chúng đối xử phân biệt từng đẳng cấp cả về chính trị và kinh tế. Tráng đinh từ 18 - 60 tuổi phải nạp sưu (thuế thân), mỗi năm 1,5 đồng. Con quan (ấm sinh), lính mộ, lính thợ chỉ phải đóng 0,4 đồng. Chức sắc (người được hưởng từ cửu phẩm trở lên), chánh, phó tổng, lý trưởng, lính khố đỏ, khố xanh, thuộc loại miễn sai, không phải nạp sưu và miễn mọi sai phu, tạp dịch. Chính vì vậy mà nhiều nơi tranh chấp chức quyền, ngôi thứ trong làng diễn ra rất gay gắt. Mỗi khi bầu chánh, phó, tổng hương lý là một cuộc tranh giành vây bè, kết cánh kiện cáo nhau…

Trên lý thuyết, đội ngũ lý hương các làng do dân bầu ra, nhưng trên thực tế, thực dân Pháp tìm mọi cách đưa những người có lợi cho chính sách cai trị của chúng vào. Tuy vậy, là vùng quê nhân dân sống nặng tình làng, nghĩa xóm, nên khi có phong trào cách mạng, số đông hương lý, thổ ty đã tích cực ủng hộ. Điển hình cho phong trào nay, có thể đến ông Đoàn Hợi, ngườ dân tộc Thái ở làng Nác Nã, ông Hương Cua ở làng Bái Đề….

  Về kinh tế:

  Từ năm 1895, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa một cách triệt để. Điển hình là việc cấu kết với địa chủ, phong kiến chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để lập các trang, ấp, đồn điền. Trên địa bàn huyện Triệu Sơn ngày nay đã có hàng loạt trang ấp, đồn điền lớn nhỏ như: ấp Di Linh, ấp Di Hoàng, ấp Hàn Thanh, ấp Hữu Ngọc, Trại Quan… Dựa thế quan thầy Pháp, giai cấp địa chủ ở địa phương tìm cách cướp ruộng của dân, nông dân bị bần cùng hóa, trở thành người làm thuê cho các ông chủ đất. Theo thống kê, trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất các làng của Thọ Sơn như sau: địa chủ, nhà giàu chiếm 48% chủ yếu là nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, công điền, công thổ chiếm 20%, thành phần dân nghèo chiếm số đông nhưng chỉ có 32% ruộng đất, chủ yếu là đất xấu, khó canh tác.

  Phần đông nông dân không có ruộng, phải đi ở mùa, hoặc làm thuê, cuốc mướn quanh năm, hoặc vào rừng hái măng, kiếm củi, đốt than...

  Chính sách bần cùng hóa về kinh tế đã đè nặng lên đời sống người dân Thọ Sơn. Lại thêm thuế khóa nặng nề, khiến đời sống người dân càng thêm túng quẫn. Thuế trực thu bao gồm thuế thân và thuế điền thổ. Trong đó, thuế đánh vào đầu người là vô nhân đạo nhất. Nam giới từ 18 tuổi trở lên đến 60 tuổi đều phải đóng thuế thân, gọi là sưu. Sưu được chia làm 3 loại: cùng đinh, tráng đinh và công chức. Cùng đinh đóng mức 1 đồng 5 hào (tương đương 1 tạ rưỡi thóc). Về sau, để bù thiếu hụt ngân khố bị thâm hụt trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, thực dân Pháp tăng cường bóc lột người dân bản xứ, thuế thân tăng đến 2 đồng 5 hào. Thuế điền hạng nhất mỗi mẫu 1,5 đồng, khoảng 1,5 tạ thóc, hạng nhì mỗi mẫu 1,2 đồng, hạng 3 mỗi mẫu 0,8 đồng. Năm 1924 nhân “Tứ tuần đại khánh” (mừng thọ vua Khải Định 40 tuổi), thuế điền nâng lên 30%. Sau đó không giảm đi mà còn tăng lên 8% để chi phí thủy lợi và giao thông. Đúng như một học giải Pháp viết trong cuốn “Xứ An Nam”: “Người An Nam cứ trả tiền và trên chiếc lưng cao su của họ, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”[11].

Lợi dụng dân trí thấp, khi có bài chỉ của tòa công sứ, hương lý các làng tăng thêm các khoản thu. Vì thế, thuế thân có khi lên đến 3,2 đồng. Lợi dụng thuế mỗi loại lại chênh lệch lớn, nên số thuế điền cũng bị tăng lên khá nhiều. Những nhà làm ruộng xâm canh (ruộng của làng khác) có khi bị thu lên gấp rưỡi, gấp đôi. Người dân đóng đủ thuế thì được nhận thẻ thuế thân và biên lai thuế ruộng để đi lại và canh tác.

  Về văn hóa – xã hội:

  Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để trị. Đa số người dân Thọ Sơn không được học hành. Trước kia, một số gia đình khá giả cho con cái học chữ, một số người cũng lều chõng đi thi, nhưng số người đỗ đạt không nhiều. Sau kỳ thi Hương năm 1918, nhà Nguyễn bãi bỏ chế độ thi cử Hán học, bởi vậy, chỉ có số ít gia đình mời thầy đồ về dạy để giữ nếp nhà, hay phục vụ cho việc tế lễ ở đình chùa… Để phục vụ cho bộ máy cai trị và khai thác thuộc địa, thực dân Pháp có mở một trường sơ học Pháp - Việt tại tổng Tam Lộng gồm có 2 lớp (đồng ấu và dự bị). Những người muốn học lên lớp trên phải về trung tâm phủ Thọ Xuân. Mà cũng chỉ một số ít con nhà khá giả mới được đi học các trường này. Đa số nhân dân Thọ Sơn đều mù chữ.

  Chính sách ngu dân của thực dân Pháp, kìm hãm người dân trong vòng đói nghèo lạc hậu. Nhân dân ăn uống phải dùng nước giếng đất, tắm giặt trong ao tù. Khi ốm đau, nhân dân phải mời thầy thuốc bắc đến nhà kê đơn, cắt thuốc, người nghèo thì tự hái thuốc nam chữa bệnh. Chính vì vậy, dịch bệnh liên tục xảy ra, có năm dịch tả chết người hàng loạt. Cảnh “hữu sinh vô dưỡng” phổ biến nên tỷ lệ tăng dân số rất thấp.

  Đời sống kinh tế khó khăn, hủ tục lạc hậu với những ma chay, cưới xin, đình đám tốn kém, tệ nạn cờ bạc phát triển, khiến người nông dân ngày càng túng quẫn. “Cửa hàng, đại lý rượu cồn của người Pháp và các tụ điểm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản khắp hang cùng, ngõ hẻm. Trung bình cứ 1.000 làng thì có 1.500 cửa hàng bán rượu cồn và thuốc phiện”[12].

  Từ năm 1939, khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, ngày 5 - 9 - 1940, phát xít Nhật vào chiếm Đông Dương, tình hình kinh tế xã hội thêm khủng hoảng nghiêm trọng. Nhân dân ta phải một cổ hai tròng, các quyền lợi dân chủ, dù chỉ là hình thức và ít ỏi đều bị thủ tiêu. Nhân dân không còn quyền bầu cử. Lý hương trong làng gồm toàn thành phần địa chủ, phú nông cường hào. Tráng đinh bị bắt đi lính, tăng cường cho phòng thủ Đông Dương và sang Pháp làm bia đỡ đạn phục vụ bộ máy chiến tranh của chúng. Phát xít Nhật tàn bạo bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay, bắt phu đi đào sông ở Tĩnh Gia, đi làm sân bay Lai Thành ở thị xã Thanh Hóa.

Đồng bạc Đông Dương mất giá, Nhật, Pháp lại tung tiền ra mua lúa, gạo để dự trữ, phục vụ chiến tranh. Năm 1944 có trận lụt lớn, mùa màng thất bát. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, một trận đói kinh hoàng xảy ra. Đi đến đâu cũng thấy người chết. Trong trận đói năm 1945 Thọ Sơn có 12 người chết. Làng quê xác xơ, chìm trong buồn thảm, tang thương.

2. Tham gia các phong trào cách mạng và khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm 1945

Một sự kiện có nghĩa ý quan trọng là việc ra đời tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (còn gọi là Việt Nam Cách mạng thanh niên) vào năm 1925, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.

Là vùng quê có truyền thống yêu nước, những người con ưu tú của Thọ Xuân đã nhanh chóng nhận ra chân lí thời đại - con đường cách mạng để cứu nước, cứu nhà. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hữu Lập, đồng chí Nguyễn Mậu Sung (Xuân Giang) đã về quê, làng Quần Kênh, tổng Kiên Thạch thành lập tiểu tổ “Hội đọc sách báo cách mạng” đầu tiên của phủ Thọ Xuân. Phong trào lan mạnh sang nhiều địa phương trong phủ, nhiều nơi đã tổ chức được “Hội truyền bá quốc ngữ”. Năm 1928, Tỉnh bộ Thanh niên đã chỉ đạo thành lập Phủ bộ Thanh niên Thọ Xuân. Tiếp thu ánh sáng cách mạng, nhiều phong trào đấu tranh của giới trí thức, học sinh trong phủ đã nổ ra, điển hình là phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu và đòi để tang cụ Phan Chu Trinh.

Sự ra đời của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tạo tiền đề quan trọng để phong trào cách mạng Thọ Xuân phát triển. Từ đây, tư tưởng cách mạng, với ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và đường lối cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được tuyên truyền trong lớp thanh niên ưu tú tạo nên lực lượng có cảm tình cách mạng ở địa phương ngày càng đông.

Ngày 3 - 2 - 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu đặt ra của cách mạng Việt Nam với một đường lối cách mạng vô sản đúng đắn. Các tổ chức cơ sở Đảng trong cả nước nhanh chóng được thành lập, trực tiếp lãnh đạo nhân dân tiến hành phong trào cách mạng, chuyển các cuộc đấu tranh tự phát lên tự giác, tiến tới đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Tại Thọ Xuân, ngày 22 - 7 - 1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Doãn Chấp, Chi bộ Thọ Xuân được thành lập. Trên cơ sở Chi bộ Hàm Hạ - Đông Sơn (thành lập ngày 25 - 6 - 1930), Chi bộ Phúc Lộc - Thiệu Hóa (thành lập ngày 10 - 7 - 1930) và Chi bộ Thọ Xuân, ngày 29 tháng 7 năm 1930, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập. Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh, trong đó có nhân dân Thọ Sơn tiến hành đấu tranh cách mạng sôi nổi trong nhiều địa phương thuộc phủ Thọ Xuân.

Qua tuyên truyền tích cực của các chiến sỹ cộng sản, thông qua hoạt động của các tổ chức quần chúng, nhiều địa phương trong huyện Thọ Xuân đã dấy lên phong trào cách mạng chống sưu cao thuế nặng, phù thu, lạm bổ, chống bọn cường hào sách nhiễu dân, chống mê tín dị đoan, xóa bỏ hủ tục rượu chè đình đám, “xôi cân, gà lượt”...

Tháng 1 năm 1936, tình hình chính trị ở Pháp có nhiều thay đổi có lợi cho phong trào cách mạng trong nước. Mặt trận nhân dân Pháp chống phát xít do Đảng Cộng sản làm nòng cốt lên nắm quyền. Mặt trận đề ra cương lĩnh đòi thả tù chính trị, ban hành quyền tự do, dân chủ, tự do lập nghiệp đoàn ở các nước thuộc địa.

Trước tình hình trên, ngày 15 tháng 3 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được triệu tập tại làng Yên Lộ (xã Thiệu Vũ, Thiệu Hóa) đã kiểm điểm tình hình, đề ra nhiệm vụ quan trọng trong tình hình mới, đồng thời ra tờ báo “Tia Sáng” để tuyên truyền cách mạng. Tỉnh ủy chỉ đạo các địa phương thành lập các hội biến tướng,những nơi có điều kiện thì thành lập Hội tương tế ái hữu hoạt động bán công khai và công khai. Đây là giai đoạn hoạt động của các tổ chức quần chúng hoạt động mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương Thọ Xuân. Thọ Sơn và các làng của tổng Tam Lộng cũng hòa chung với khí thế cách mạng của cả nước.

Giữa năm 1937 đồng chí Trịnh Khắc Sản, là một đảng viên từ làng Long Linh Ngoại đến làng Quần Tín (Thọ Cường) sinh sống([13]). Đồng chí được tổ chức phân công mở lớp học chữ quốc ngữ và tuyên truyền giác ngộ cách mạng ở khu vực tổng Tam Lộng. Thông qua các lớp học chữ quốc ngữ, đồng chí Trịnh Khắc Sản đã tập hợp thanh niên tiến bộ trong tổng Tam lộng để tuyên truyền đường lối cách mạng, tài liệu chủ yếu là các bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những bài viết trên các báo Tia Sáng, báo Nhành Lúa do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh phát hành. Trong đó có bài thơ do đồng chí Nguyễn Doãn Chấp, Bí thư Tỉnh ủy sáng tác:

Này anh chị em ơi!

Phải chăng chế độ của riêng

Mình làm khó nhọc, bạc tiền người ăn

Cái thân đã khổ muôn phần

Lại còn sưu thuế vua quan thêm phiền

Cuộc đời điên đảo, đảo điên

Lẽ nào chịu khổ nằm yên trong vùng

Đứng lên phất ngọn cờ hồng

Con đường cách mạng công nông đi đầu

Tiến lên mau, tiến lên mau

Phá tan tư sản, đập đầu vua quan

Thành lập xô viết liên bang…

 Qua các sách báo công khai, nhân dân Thọ Sơn nói riêng, tổng Tam Lộng nói chung hiểu thêm về những bất công của chế độ cũ, yêu cầu cấp thiết phải tổ chức các hội quần chúng tạo thành sức mạnh đoàn kết để đấu tranh chống lại cường quyền, áp bức.

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản, phong trào thành lập các hội biến tướng công khai ở Thọ Sơn, cũng như tổng Tam Lộng ngày càng phát triển. Hầu hết các làng đều thành lập được tổ chức quần chúng như: Hội lợp nhà, Hội đánh tranh, Hội bạn điền, Hội cấy, Hội cày… Trên danh nghĩa là thành lập các hội để giúp nhau trong cuộc sống, nhưng đây là chủ trương của Đảng tập hợp quần chúng sinh hoạt tập thể để chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn: đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Hội tương tế ái hữu các làng đã góp thóc, tiền tạo nguồn quỹ của hội để giúp đỡ các hội viên phát triển kinh tế, như: mua lợn giống, hoặc những khi gia đình có việc lớn như: làm nhà, cưới vợ cho con... Hội tương tế ái hữu làng Quần Tín đã vận động nhân dân đấu tranh đòi bỏ các hủ tục lạc hậu, lệ đóng góp trong việc làng, đấu tranh chống “Dự án thuế thân”, “Dự án thuế điền thổ”…

Giữa năm 1937, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản, hội biến tướng của các làng ở Thọ Sơn đã vận động cử tri đi tham gia bỏ phiếu cho ứng cử viên của Mặt trận dân chủ trong cuộc bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ.  Khu vực Thọ Xuân, những nhân sĩ tiến bộ do Mặt trận giới thiệu đều trúng cử.

Đây là giai đoạn Hội tương tế ái hữu ở tổng Tam Lộng, cũng như huyện Thọ Xuân hoạt động rất sôi nổi, liên tiếp các cuộc đấu tranh đòi công điền, công thổ, cải lương hương tục, giảm bỏ tệ xôi cân, gà lượt… do Hội tương tế ái hữu các làng lãnh đạo thắng lợi đã cổ vũ nhân dân Thọ Sơn rất nhiều.

Tháng 9 năm 1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, nước Pháp lao vào vòng chiến, chính phủ mới ở Pháp thi hành chính sách phản động đối với nước Pháp và các nước thuộc địa. Phong trào cách mạng của Thọ Xuân nói riêng, Thanh Hóa nói chung bị tổn thất nặng, nhiều đồng chí cán bộ nòng cốt bị bắt bớ, tù đày.

Năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược các nước Đông Dương, thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng, từ đây, nhân dân Thọ Sơn sống trong 2 tầng áp bức, bóc lột. Tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ư­­ơng Đảng lần thứ 8 họp tại Pắc Pó do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã chủ tr­­ương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi n­ước Đông Dư­ơng, xác định đường lối cách mạng nư­­ớc ta trong giai đoạn này là “đánh Pháp, đuổi Nhật, Đông Dư­­ơng hoàn toàn độc lập và quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh), thay cho Mặt trận thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật.

Cuối năm 1942, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa liên lạc được với Trung ương Đảng và nhận được Nghị quyết Trung ương 8 và Điều lệ của Mặt trận Việt Minh. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, đại diện Tỉnh ủy về Thọ Xuân tổ chức hội nghị tại chùa Yên Thọ (Xuân Minh) truyền đạt Nghị quyết Trung ương 8 và thành lập Mặt trận Việt Minh phủ Thọ Xuân.

Giữa năm 1944, tình hình thế giới và trong nư­­ớc có những chuyển biến mau lẹ có lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 7 - 5 - 1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Tháng 10 - 1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ: “phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt ... Cơ hội cho 1 dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”[14]Trên địa bàn Thọ Xuân, phong trào cách mạng ngày càng phát triển, tin tức Việt Minh rải truyền đơn, tổ chức diễn thuyết ở các chợ ngày càng nhiều, đã cổ vũ nhân dân Thọ Sơn hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, nhiều người là chức sắc trong làng cũng tích cực tham gia ủng hộ cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh tổng Tam Lộng, quần chúng cách mạng ở các làng Thọ Sơn đã tích cực chuẩn bị vũ khí, như: súng kíp, giáo, mác... tất cả chuẩn bị cho một sự kiện lớn lao sẽ xảy ra trên quê hương.

Sang năm 1945, nạn đói diễn ra trầm trọng, riêng các làng của Thọ Sơn ngày nay đã có 12 người chết đói,thực hiện Chỉ thị “đòi ăn” của Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa, hàng ngàn quần chúng trong huyện đã h­ưởng ứng với nhiều hình thức sôi nổi. Nhiều nơi nhân dân đã đứng lên phá kho thóc của Nhật, của nhà giàu lấy thóc cứu đói cho dân. Trong các làng ở Thọ Sơn, tổng Tam Lộng, nhân dân đứng lên đấu tranh không bán thóc cho Nhật, không nhổ lúa trồng đay, không đi phu làm sân bay Lai Thành, đào kênh Sắt… Ở đâu người ta cũng nói chuyện Việt Minh rải truyền đơn kêu gọi nhân dân đứng lên chống Nhật, Pháp. Một số thanh niên tiến bộ ở Thọ Sơn đã đứng lên kêu gọi nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, nh­ường cơm xẻ áo, giúp đỡ nhau lúc khó khăn.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương, trước tình hình ấy Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” kêu gọi toàn dân chuẩn bị lực lượng tổng khởi nghĩa. Giữa năm 1945, ảnh hư­ởng của phong trào Việt Minh ngày càng rộng, phong trào xây dựng lực lượng vũ trang ở tổng Tam Lộng nói chung, các làng Thọ Sơn nói riêng phát triển mạnh. Một số thanh niên ở các làng ban ngày đi làm đồng, ban đêm tổ chức luyện tập, trên danh nghĩa là tập võ để chống cướp, nhưng thực tế đây là sự chuẩn bị lực lượng để chuẩn bị cư­ớp chính quyền. Các buổi huấn luyện thường được tổ chức vào ban đêm, trên các cồn bãi ở ngoài đồng, tạo nên khí thế cách mạng mới.

Từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp để đánh giá tình hình và nêu ra những chủ trư­ơng của cách mạng trong thời kỳ mới. Hội nghị nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp - Nhật” và phát động phong trào kháng Nhật mạnh mẽ, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nơi nào có điều kiện thì phát động chiến tranh du kích giành chính quyền ở địa phư­ơng.

Tình hình thế giới có những chuyển biến thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 9 - 8 - 1945, phát xít Đức ký văn bản đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Ngày 15 - 8 - 1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh. Tr­ước tình hình đó, ngày 15 - 8 - 1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Mao Xá (Thiệu Hóa) đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, ngày 17 - 8 - 1945, Ủy ban khởi nghĩa, đồng thời là Ủy nhân dân cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân được thành lập do đồng chí Hoàng Sỹ Oánh (Thọ Phú) làm Chủ tịch.

Đêm 18 - 8 - 1945, cùng với cả nước, tự vệ các làng ở Thọ Sơn thức thâu đêm để nhận nhiệm vụ và chờ lệnh. Hội viên các hội quần chúng khẩn trương may cờ, băng rôn, chuẩn bị thêm vũ khí, gậy gộc, cơm nắm... Đúng giữa đêm 18 rạng ngày 19 - 8 - 1945, lệnh tổng khởi nghĩa phát ra, không khí thôn xóm sôi động chưa từng có. Quần chúng cách mạng, cùng lực lượng tự vệ chiến đấu kéo đến nhà hương chức, lý trưởng thu sổ sách, đồng bài, đồng triện... Theo chỉ đạo của Ủy ban khởi nghĩa phủ Thọ Xuân, đội tự vệ các làng Thọ Sơn do cụ Bùi Văn Nhãn dẫn đầu lên đánh chiếm trại lính ở đập Bái Thương, sau đó kéo về cùng tự vệ và quần chúng các làng trong tổng Tam Lộng tham gia đánh chiếm phủ đường. Trước sức mạnh như triều dâng thác đổ, quan lại phủ Thọ Xuân đã ngoan ngoãn bàn giao ấn tín, sổ sách cho cách mạng. Chính quyền thực dân phong kiến ở Thọ Xuân bị sụp đổ. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thọ Xuân thắng lợi hoàn toàn mà không đổ máu.

Sáng ngày 20 - 8 - 1945, cùng với toàn phủ, nhân dân Thọ Sơn kéo về phủ lỵ dự mít tinh chào mừng cách mạng thắng lợi và lễ ra mắt chính quyền cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân do đồng chí Hoàng Sỹ Oánh làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Thọ Xuân. Cuộc mít tinh kết thúc thắng lợi trong tiếng hô vang dội của hàng ngàn quần chúng:

- Ủng hộ chính quyền nhân dân!

- Việt Nam hoàn toàn độc lập!

- Việt Minh muôn năm!

Cách mạng tháng Tám thành công là mốc son chói lọi tạo ra bước ngoặt lịch sử xã nhà. Từ đây, nhân dân Thọ Sơn cùng nhân dân cả nước được sống trong một đất nước độc lập, tự do. Niềm phấn khởi tự hào trước cuộc sống mới đã thôi thúc các tầng lớp nhân dân Thọ Sơn vững vàng cùng cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mớikháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi.

II.                 XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 – 1954)

1. Xây dựng và củng cố chính quyền, ổn định đời sống nhân dân (9/1945 - 10/1948)

Cách mạng tháng Tám thành công đã xóa bỏ ách thống trị thực dân, phong kiến đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân cả nước cũng như nhân dân Thọ Sơn. Với niềm tự hào và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Thọ Sơn tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua cùng nhân dân cả nước từng bước khắc phục những hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại, tiến hành xây dựng cuộc sống mới.

Sau khi chính quyền thực dân, phong kiến bị xóa bỏ, ủy ban nhân dân các làng và tổng Tam Lộng được thành lập, gồm các chức danh: chủ tịch, ủy viên quân sự, ủy viên tài chính, ủy viên văn hóa, đồng thời thành lập Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng tự vệ cách mạng, kịp thời giải quyết khó khăn trong đời sống nhân dân, tình hình mọi mặt ở địa phương từng bước được ổn định. Trong điều kiện chính quyền cách mạng còn non trẻ, nhiệm vụ đặt ra hàng đầu trong lúc này là củng cố chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng và ổn định đời sống nhân dân.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, tại các làng, đội tự vệ kịp thời được củng cố và đẩy mạnh luyện tập quân sự, ngày đêm tuần tra canh gác, giữ trật tự an ninh thôn, xóm, cảnh giác phát hiện và sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của lực lượng phản cách mạng. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước tại các cuộc mít tinh, các cuộc họp toàn dân, cuộc họp của các đoàn thể. Nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, ủng hộ cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng vượt qua khó khăn, xây dựng, bảo vệ chế độ mới.

Ngày 22 tháng 11 năm 1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 63/SL về tổ chức chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương trong cả nước.

Đến cuối tháng 12 năm 1945, theo chủ trương chung, cấp tổng được giải thể, thành lập cấp xã, phủ Thọ Xuân được đổi thành huyện Thọ Xuân. Xã Thọ Sơn được thành lập gồm có các làng: Hữu Cựu, Tiên Sơn, Bái Đề, làng Pheo, Bạ Thôn (nay là làng Bứa, Ngô Công, Hông Vai – nay thuộc xã Xuân Thắng), Đồng Ao, Đồng Sang, Nác Nã…

Sau khi thành lập xã, chính quyền nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên địa bàn xã. Các tổ bầu cử của các làng đến từng gia đình vận động, giải thích cho nhân dân thấy rõ ý nghĩa của cuộc bầu cử. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, trong không khí từng bừng, phấn khởi của toàn dân trong ngày bầu cử Quốc hội, đông đảo cử tri Thọ Sơn, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đủ điều kiện đều được tham gia đi bỏ phiếu. Để nhân dân dễ nhớ, người ta còn làm thơ nhắc tên các ứng cử viên trong khu vực bầu cử:

Thụy, Thông, Đắc, Kỷ, Oánh, Kỳ

Ngọc, Thuần, Tỉnh, Huệ, Thực, Kỳ, Đức, Bân

Ai ơi xin chớ ngại ngần

Bỏ cho người đó là chân anh tài.

Cùng với cử tri toàn tỉnh, các cử tri trong xã Thọ Sơn đã bầu đủ 100% đại biểu của tỉnh Thanh Hóa vào Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tháng 4 năm 1946, nhân dân Thọ Sơn lại đi bầu cử Hội đồng nhân dân 2 cấp (xã và tỉnh). Sau bầu cử, hệ thống chính quyền của Thọ Sơn chính thức được thành lập.

Như vậy, chỉ sau 4 tháng giành được độc lập, hệ thống chính quyền của nước ta từ cơ sở đến Trung ương chính thức được thành lập theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân thắng lợi đánh dấu một bước chuyển quan trọng trên quê hương Thọ Sơn. Từ chính quyền được lập nên do thành quả đấu tranh cách mạng, đến nay chúng ta đã xây dựng được chính quyền do dân bầu ra. Đây là đòn giáng mạnh vào các thế lực thù địch đang chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Biểu hiện sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và ý chí sắt đá quyết tâm bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ đây, Thọ Sơn cùng với nhân dân cả nước có một Nhà nước theo thiết chế cộng hòa, được nhân dân bầu ra, đại diện cho nguyện vọng, ý chí của nhân dân.

Để tiếp tục lãnh đạo các phong trào cách mạng trên địa bàn huyện, tháng 10 năm 1945, Đảng bộ huyện Thọ Xuân được thành lập. Đảng bộ tiến hành tổ chức các lớp nghiên cứu Mác Xít để tuyên truyền lý tưởng cộng sản, qua đó phát triển đảng viên ở các xã. Ngày 11-11-1945, Đảng ta tuyên bố tự giải tán, tuy nhiên, Đảng ta không từ bỏ vai trò lãnh đạo cách mạng của mình mà chủ trương đi vào hoạt động bí mậtcho phù hợp với yêu cầu cách mạng mới, mọi sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu thông qua Mặt trận Việt Minh các cấp.

Đơn vị hành chính xã ra đời đã tạo thuận lợi về sự thống nhất trong việc triển khai chủ trương của Chính phủ. Địa phương đã tiến hành kịp thời việc thực hiện các chính sách của Chính phủ, như: bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý khác, bãi bỏ phu phen tạp dịch; tiến hành chia công điền, công thổ cho các hộ nông dân nghèo, ít ruộng đất... Đồng thời, thực hiện xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của chế độ cũ để lại, xây dựng đời sống mới, kịp thời cải thiện và ổn định đời sống nhân dân.

Thời điểm này, chính quyền và nhân dân Thọ Sơn gặp vô vàn những khó khăn. Sau 80 năm đô hộ, chế độ thực dân, phong kiến đã để lại một nền kinh tế đổ nát, sản xuất đình đốn, tài chính trống rỗng; nạn đói khủng khiếp với trên 2 triệu người chết đói, trên 90% dân số mù chữ, đời sống kinh tế, văn hóa lạc hậu... Giữa lúc đó, trung tuần tháng 9 năm 1945, quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh vào miền Bắc, nhân cơ hội đó, bọn Việt Nam Quốc dân Đảng nổi dậy âm mưu lật đổ chính quyền non trẻ của ta. Tại Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào uy hiếp chính quyền cách mạng. Bọn phản động nội địa móc nối tìm cách phá hoại. Thực dân Pháp âm mưu quay lại xâm lược đất nước ta một lần nữa.

Lúc này, tại Thọ Sơn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn do thiếu lương thực trầm trọng. Đồng ruộng bị thiên tai, hạn hán, bạc màu không thể sản xuất được. Chính quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ vừa phải đương đầu với tình hình chính trị phức tạp, vừa phải nhanh chóng tìm biện pháp giải quyết nạn đói ổn định đời sống nhân dân. Trước tình thế trên, Việt Minh và chính quyền địa phương đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm thực hiện nhiệm vụ mà Chính phủ đã đề ra, được Hồ Chủ tịch nói gọn lại là: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

Từ tháng 9 năm 1945, Thọ Sơn đã thành lập ban tăng gia sản xuất và ban cứu đói tại các làng, phát động phong trào diệt giặc đói rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Thấm nhuần ý nghĩa của nhiệm vụ cấp bách này, nhân dân Thọ Sơn tích cực hưởng ứng nhanh chóng bắt tay vào sản xuất. Thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, người dân tận dụng từng khoảnh ruộng hoang, đồi vườn trồng rau màu, cây lương thực. Nơi đầm sâu, ao hồ trồng rau muống bè, đồi vườn trồng cây lương thực, như: ngô, khoai, sắn... Thực hiện chỉ đạo của huyện Thọ Xuân, Thọ Sơn thực hiện miễn thuế từ 3 - 5 năm đối với ruộng đất mới khai hoang, phục hóa, nên đã khuyến khích nhân dân hăng hái sản xuất. Đồng thời, chính quyền cách mạng đã thu hồi ruộng công điền, công thổ... vận động các điền chủ nhường cho nông dân nghèo mượn ruộng, hoặc thu tô thấp, kết quả mỗi hộ nông dân đều có từ 1 đến 2 sào ruộng để sản xuất.

Bên cạnh đẩy mạnh sản xuất, nhân dân địa phương đã hưởng ứng sôi nổi phong trào thực hành tiết kiệm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem số gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu người nghèo. Như vậy thì người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa sau, khỏi đến nổi chết đói”[15]. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Thọ Sơn đã có nhiều hình thức phong phú, như: phát động các gia đình làm hũ gạo tiết kiệm, kêu gọi nhân dân ủng hộ quỹ độc lập, phát huy tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau... Các làng đều thành lập ban vận động đến từng gia đình có điều kiện kinh tế khá vận động đóng góp thóc gạo ủng hộ các gia đình đói ăn, đứt bữa. Các gia đình đều thực hiện tiết kiệm bớt bữa, bớt gạo hàng ngày khi nấu cơm bỏ hũ góp gạo cứu đói để ủng hộ người nghèo.

Kết quả, toàn xã Thọ Sơn đã đóng góp được 1.273kg lương thực ủng hộ người nghèo. Ngoài ra, qua hai đợt vận động các gia đình phú hữu đã quyên góp tiền, thóc, được vận chuyển lên huyện để ủng hộ nhân dân Nam Hà. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực, nhân dân các làng Thọ Sơn từng bước vượt qua nạn đói, nhân dân càng tin tưởng vào chính quyền cách mạng, vào chế độ mới...

Một nhiệm vụ quan trọng khác được chính quyền xã Thọ Sơn tập trung thực hiện là chống nạn mù chữ. Bao đời chìm đắm trong đêm dài nô lệ, có đến hơn 90% dân số Thọ Sơn thất học.

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muồn làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người Việt Nam phải hiểu biết về quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[16]. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thọ Sơn đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về chống nạn thất học.

Từ tháng 9 năm 1945, tỉnh Thanh Hóa thành lập Ty Bình dân học vụ. Ngay sau đó, Ty Bình dân học vụ đã chỉ đạo thành lập ban bình dân học vụ từ huyện xuống cơ sở. Cuối năm 1945, ban bình dân học vụ của xã Thọ Sơn được lập. Tại các làng ở đều thành lập ban vận động xóa mù chữ, tiến hành tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào bình dân học vụ. Mỗi làng đều có từ 2 đến 3 giáo viên trực tiếp phụ trách lớp và giảng dạy. Việc tổ chức lớp học được tiến hành tại đình làng, hoặc nhà dân, từ 5 - 7 người trở lên là thành lớp học. Học viên là toàn thể nhân dân, không kể già trẻ em, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tất cả đều tham gia học tập. Huyện Thọ Xuân đã mở lớp bồi dưỡng cho những người tham gia dạy bình dân học vụ. Ngoài số giáo viên phụ trách lớp, số người tham gia giảng dạy cũng rất linh hoạt, với phương châm: người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, anh biết chữ dạy cho em, con biết chữ dạy cho cha mẹ... Học viên học tập tranh thủ mọi lúc, mọi nơi, thường người lớn học vào buổi trưa, buổi tối. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Đồng bào bây giờ phải biết chữ để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh, ai cũng biết chữ”[17].

Hàng tháng ban bình dân học vụ xã tiến hành kiểm tra, sơ kết từng đợt, kịp thời tuyên dương những tập thể và cá nhân có thành tích cao trong học tập, nhắc nhở những cá nhân không chịu đi học. Nhiều khẩu hiệu được viết trên nong, nia, được treo hai bên đường làng, như: Đi học là yêu nước, Chống giặc dốt cũng như chống giặc ngoại xâm… Người ta còn sang tác thơ ca, hò vè khích lệ nhau đi học:

-                        Lấy chồng biết chữ là tiên

Lấy chồng mù chữ là duyên con bò.

-                        Cô khen cô đẹp, cô giòn

Cô không biết chữ ai còn lấy cô…

Đến cuối năm 1948, đã có hàng trăm người trong xã thoát nạn mù chữ; nhiều cán bộ, giáo viên tích cực với phong trào đã được cấp giấy chứng nhận chiến sỹ diệt dốt. Từ phong trào này, một số học viên sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt ở thôn, xã.

Tháng 6 năm 1946, Ủy ban hành chính xã, Việt Minh và các đoàn thể triển khai phong trào chiến dịch thực hiện nếp sống mới, giáo dục: Cần - Kiệm - Liêm - Chính theo thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cuộc vận động chống mê tín dị đoan, xóa bỏ các tập tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin, việc làng, việc họ... được nhân dân tích cực hưởng ứng tạo nếp sống văn hóa mới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa được bao lâu thì ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp đã gây chiến ở Nam Bộ, âm mưu quay lại xâm lược nước ta. Các tổ chức phản động trong, ngoài nước câu kết với nhau âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của ta. Trong khi đó, chính quyền cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, tài chính thì trống rỗng, mọi hoạt động đều phải dựa vào dân. Trước tình hình đó, nhiệm vụ hàng đầu lúc này là bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững chính quyền non trẻ của cách mạng. Trước âm mưu của kẻ thù, ngày 4 - 9 - 1945, Chính phủ đã ra Sắc lệnh tổ chức quỹ độc lập và phát động tuần lễ vàng, tuần lễ đồng để vận động, huy động sự đóng góp của nhân dân ủng hộ, bảo vệ chính quyền cách mạng và nền độc lập dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Việt Minh và chính quyền xã, các tổ chức đoàn thể đến các gia đình giàu có vận động ủng hộ quỹ độc lập, đóng góp vàng, đồng để Chính phủ có ngân sách hoạt động và chuẩn bị vũ khí chống quân xâm lược. Khẩu hiệu được nhắc đến trong các cuộc họp là: Hãy đem vàng đổi lấy tự do. Nhiều thơ ca hò vè dễ thuộc với nội dung ủng hộ cuộc vận động được phát thanh (bằng loa tay), hoặc truyền khẩu trong nhân dân đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và niềm tin tưởng vào cách mạng, như:

Đeo vàng chỉ tổ nặng tai

Đeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng

Góp vàng đổi súng cối xay

Bắn tan giặc, nước có ngày vinh quang

Người còn thì của hãy còn

Nước tan, nhà mấy vàng son làm gì!

Đã có nhiều gia đình đóng góp mâm, nồi, chậu thau đồng, đồ cúng ở các gia đình bằng đồng như: lư hương, đế nến... Nhiều chị em phụ nữ tự nguyện tháo đồ trang sức: hoa tai, nhẫn vàng, bạc để đóng góp. Kết quả toàn xã đã quyên góp được hơn 18 chỉ vàng, bạc, gần 200kg đồng. Tham gia tuần lễ vàng, tuần lễ đồng, nhân dân Thọ Sơn thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mà nhân dân ta đã phải đổ bao xương máu mới có được.

Sau phong trào tuần lễ vàng, tuần lễ đồng và ủng hộ quỹ độc lập là phong trào ủng hộ quỹ đảm phụ quốc phòng góp phần xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cũng được thực hiện sôi nổi. Để thực hiện nhiệm vụ chống ngoại xâm, các đội tự vệ đã chuyển lên thành lập các đội dân quân, du kích và tiến hành rèn sắm vũ khí, luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu.

Trong thời gian này, để mở rộng Mặt trận đoàn kết dân tộc, củng cố vững chắc khối đoàn kết toàn dân, ngày 29 - 5 - 1946, thực hiện chủ trương của Đảng, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tại địa phương, hội viên các đoàn thể cứu quốc và Liên Việt đã đoàn kết tích cực hoạt động đạt hiệu quả cao trong các cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, kiến quốc, đấu tranh chống thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta...

Sau khi trắng trợn xóa bỏ đàm phán hòa bình, tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp đã ngang nhiên đánh chiếm Hải Phòng và Hà Nội. Trước tình hình đó, để bảo vệ Tổ quốc, ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị mở rộng tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Pháp trên phạm vi toàn quốc. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, đài Tiếng nói Việt Nam phát lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý chí sắt đá: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[18]. Ngày 22 tháng 12 năm 1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến đã vạch rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, với phương châm của cuộc kháng chiến là: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến và tự lực cánh sinh. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, nhân dân Thọ Sơn đã cùng nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, đồng tâm đứng dậy đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.

Để thuận tiện cho việc tổ chức kháng chiến, đáp ứng nhu cầu chi viện cho tiền tuyến, đầu năm 1947, theo chỉ đạo của huyện Thọ Xuân, Ủy ban kháng chiến xã Thọ Sơn được thành lập. Thực hiện Sắc lệnh số 91-SL ngày 1 - 10 - 1947, Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính xã Thọ Sơn được sáp nhập thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã[19].

Sau khi kiện toàn tổ chức, Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính xã Thọ Sơn tập trung lãnh đạo xây dựng hậu phương kháng chiến, chuẩn bị mọi điều kiện cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến.

Đáp lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Việt Minh xã đã lãnh đạo nhân dân tích cực chuẩn bị mọi mặt cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến.

Trong lúc cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đang nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hóa, từng bước xây dựng hậu phương vững mạnh, thì ngày 20 - 2 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh đạo tối cao của cuộc kháng chiến vào thăm Thanh Hóa. Người nói chuyện với cán bộ của tỉnh tại Rừng Thông (Đông Sơn), nói chuyện với đại biểu thân sỹ, trí thức phú hào tại Trại Phủ Hùng, xóm Thọ (Đông Tân) và nói chuyện với nhân dân tại nhà Bác Cổ thị xã Thanh Hóa. Người căn dặn cán bộ đối với bản thân, đối với đồng chí, đối với công việc, đối với nhân dân, đối với đoàn thể phải như thế nào. Người phân tích thế của ta và thế của địch trong cuộc kháng chiến và khẳng định: “Cả ba: thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều lợi cho ta”. Người kêu gọi nhân dân trong tỉnh đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiêu thổ kháng chiến và đề nghị cán bộ và nhân dân xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, các địa phương thi đua xây dựng huyện kiểu mẫu, xã kiểu mẫu, làng kiểu mẫu, với cách làm “đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân”. Người còn căn dặn: “phải làm các việc thiết thực, từ dễ đến khó. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, kể hàng triệu nhưng không làm được[20]”.      

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh và chính quyền xã, nhân dân xã nhà dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, quyết tâm nỗ lực phấn đấu trên các mặt sản xuất, tiết kiệm, xây dựng nếp sống mới, cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất hơn nữa”, “Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây”. Các đoàn thể cứu quốc đi đầu trong phong trào, các hình thức tăng gia sản xuất cũng rất đa dạng, phong phú. Chính quyền và các đoàn thể cứu quốc còn đến các gia đình nhiều ruộng vận động cho người nghèo mượn ruộng, hoặc thu tô thấp để nhân dân sản xuất. Một số điền chủ có tư tưởng tiến bộ đã tự nguyện “hiến điền” cho dân nghèo. Ngoài sản xuất lúa, màu, chính quyền còn vận động nhân dân chăn nuôi gia súc, gia cầm, duy trì các cây truyền thống để sản xuất thủ công, như; trồng bông, trồng dâu nuôi tằm...

Trong năm 1947, thực hiện nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến của Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, dân quân, du kích và nhân dân Thọ Sơn đã cùng dân quân, du kích trong huyện thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Các thôn đều đào hào, đắp công sự chiến đấu, rào làng chiến đấu, đóng cọc ở những địa điểm địch có thể nhảy dù. Làng được rào bằng tre, có cổng đóng mở để kiểm soát ngăn ngừa kẻ gian trà trộn... Hàng đêm dân quân, du kích trực chiến và tuần tra canh gác nghiêm ngặt. Ai nấy đều ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch khi vào thăm Thanh Hóa: “Phá hoại là để kháng chiến”, “tản cư cũng là kháng chiến”, “Phá để ngăn bước tiến của quân thù”[21]

Hơn 2 năm sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đã trải qua muôn vàn khó khăn, từng bước xây dựng cuộc sống mới và thu được kết quả rất đáng tự hào. Đây là tiền đề quan trọng để nhân dân trong xã bước tiếp cuộc hành trình đẩy gian khó trong những năm tiếp theo.

2. Xây dựng hậu phương kháng chiến, cùng cả nước đánh thắng thực dân pháp xâm lược (1948 - 1954)

        Thực hiện Sắc lệnh 62-SL ngày 5 - 7 - 1947 của Chính phủ, huyện Thọ Xuân có sự điều chỉnh lại đơn vị hành chính cấp xã theo hướng sáp nhập các xã lớn thành các xã nhỏ hơn. Theo đó, tháng 11 năm 1948, xã Thọ Sơn sáp nhập với xã Duy Tân (Thọ Ngọc) và xã Đoàn Kết (Thọ Cường) thành xã Thọ Ngọc. Đồng chí Đinh Văn Học được bầu là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Lúc này địa bàn của xã trải dài từ các làng của xã Thọ Ngọc, Thọ Cường lên tận các làng miền núi của Thọ Sơn. Đây là một trong những khó khăn trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã.

Đồng thời với việc thành lập xã mới, Chi bộ xã Thọ Ngọc (cũ) cũng được thành lập, đồng chí Lê Văn Lân được bầu làm Bí thư. Chi bộ Đảng ra đời đánh dấu bước chuyển quan trọng của phong trào cách mạng ở địa phương. Nghị quyết Chi bộ đề ra là đẩy mạnh phát triển đảng viên, tiến tới mỗi làng, hoặc cụm làng phải có đảng viên để lãnh đạo các phong trào cách mạng. Chi bộ đã ra nghị quyết trong đó tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng, cụ thể là thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch xây dựng Thọ Ngọc thành xã kiểu mẫu.

Để nhanh chóng ổn định tình hình, Chi bộ tập trung lãnh đạo củng cố và gấp rút chuẩn bị công tác kiện toàn lại bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể cứu quốc ở địa phương.

Ngay sau khi được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, trực tiếp là Mặt trận Việt Minh, chính quyền xã nhanh chóng bắt tay lãnh đạo nhân dân xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến. Từ cuối năm 1948, Việt Minh và chính quyền xã đẩy mạnh phong trào “thi đua ái quốc” theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Trên mặt trận sản xuất, Việt Minh, chính quyền xã phát động nhân dân mạnh tăng gia sản xuất, khai hoang mở rộng diện tích, tích cực làm thủy lợi, khoanh vùng giữ nước đồng cao, tháo nước đồng sâu để gieo cấy. Phát động nhân dân làm phân xanh, ủ phân chuồng, phân bùn bón ruộng, học tập kinh nghiệm trồng khoai lang ụ tại sân, vườn. Do tích cực sản xuất nên lương thực và rau màu đạt sản lượng cao, bảo đảm đời sống nhân dân và tiết kiệm lúa gạo gửi ra tiền tuyến. Đồng thời, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ đã triển khai công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Sắc lệnh giảm tô 25% (tháng 7-1949), hầu hết địa chủ, phú nông ở địa phương đã thực hiện giảm tô, tuy chưa đạt 25%, nhưng đã tạo điều kiện nâng cao đời sống người nhận ruộng. Bên cạnh đó, các cuộc vận động hiến điền cũng được đa số địa chủ, phú nông thực hiện, kết quả toàn xã hiến được 97 mẫu ruộng để chính quyền xã cấp cho nông dân nghèo. Đồng thời, chính quyền còn vận động các gia đình có tiền, thóc cho vay giảm tức xuống 10%. Do làm tốt công tác giảm tô, giảm tức, đã khích lệ bà con nông dân hăng hái sản xuất đạt năng suất cao, sản lượng lúa, màu tăng lên. Đó cũng là thắng lợi của Đảng trong thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo niềm tin cho nhân dân, chiến sỹ nơi tiền tuyến yên tâm kháng chiến, tạo nên khối đoàn kết toàn dân góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Để đóng góp cho cuộc kháng chiến được công bằng, hợp lý, huy động sự đóng góp của các tầng lớn nhân dân cho cuộc kháng chiến theo khả năng của từng hộ, Chính phủ đã ra Sắc lệnh thuế nông nghiệp. Đầu năm 1951, các đồng chí cán bộ huyện Thọ Xuân đã tham dự lớp tập huấn của tỉnh tại đình Sim (Hợp Thành) do đồng chí Lý Ban, Ủy viên Trung ương Đảng về chỉ đạo. Tại đây, các đồng chí được giảng viên giải thích chính sách thuế nông nghiệp của Chính phủ, nêu rõ sự khác nhau giữa thuế cũ và thuế mới; được tập huấn cách xây dựng kế hoạch, phân loại hộ, nắm trích lục ruộng đất của từng hộ đối chiếu với hiện tại, tiến hành khảo sát từng khu, từng vùng, từng ruộng; căn cứ thu hoạch thực tế từ trước định ra 10 hạng đất để xác định hạng thuế, sau đó đưa ra cuộc họp toàn dân để bình thuế công khai. Do được tuyên truyền, giải thích cặn kẽ cho từng đối tượng, nên hầu hết nhân dân đều đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, cũng còn một số điền chủ tìm mọi cách giấu sản lượng, giấu diện tích, phân tán ruộng đất để trốn thuế, hoặc kêu thuế mới cao không chịu nộp. Nhân dân đã đấu tranh trực diện với những đối tượng này đòi đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế, các tổ chức đoàn thể cứu quốc và Ban thuế đã kịp thời, giải thích nên các làng ở Thọ Sơn không còn hiện tượng dây dưa nợ thuế.

Là địa phương có phong trào phát triển mạnh, các làng của Thọ Sơn, cũng như nhân dân trong xã Thọ Ngọc luôn đi đầu trong các phong trào ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Từ năm 1947 đến năm 1950, nhân dân trong xã đã tích cực tham gia các đợt vận động như: mùa đông binh sĩ, ủng hộ quỹ Đảng, ủng hộ quỹ dân quân tự túc, ủng hộ quỹ mua súng, ủng hộ bộ đội địa phương, tham gia quỹ đảm phụ quốc phòng, mua công phiếu kháng chiến, bán lúa khao quân của Hồ Chủ tịch, mua công trái quốc gia. Chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã tổ chức nhiều hình thức phong phú nhằm khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, tạo nên khí thế thi đua trong nhân dân như làm thơ ca kêu gọi, biểu dương người đóng góp tích cực cho kháng chiến qua thông tin bằng loa. Tổ chức các buổi ủng hộ công khai, ai ủng hộ nhiều được ngồi ghế cao trong hàng ghế danh dự, ai ủng hộ nhiều nhất sẽ được giải quán quân... Nhờ vậy, dù còn khó khăn nhưng nhân dân các làng của Thọ Sơn vẫn tích cực tham gia các phong trào ủng hộ kháng chiến.

Trong đợt vận động quỹ dân quân tự túc, và bộ đội địa phương, các làng Thọ Sơn đã cùng với nhân dân toàn xã, quyên góp được 32 tấn thóc, mua được 128 cây kiếm, mác, 102 quả lựu đạn, 36 quả mìn để trang bị cho tự vệ xã. Đầu năm 1948, nhân dân Thọ Ngọc (cũ) tham gia mua công phiếu kháng chiến với số tiền là 82.135 đồng. Sang năm 1949, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân bán lúa để Chính phủ khao quân đội nhân ngày Quốc khánh, nhân dân đã bán được 94 tấn thóc. Cũng trong thời gian này, nhân dân bán lúa khao quân Hồ Tùng Mậu (ủng hộ bộ đội địa phương) được 76 tấn. Cuộc vận động ủng hộ quỹ đảm phụ quốc phòng nhân dân đã ủng hộ được 61.127 đồng bạc và 9 tấn thóc[22].

Như vậy, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, mà trực tiếp là Mặt trận Việt Minh, cán bộ và nhân dân trong xã đã tích cực thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng. Nhân dân các làng của Thọ Sơn vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, xây dựng nếp sống mới vừa củng cố lực lượng dân quân, tự vệ, chuẩn bị mọi điều kiện để sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Đó là những đóng góp rất đáng tự hào mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong giai đoạn lịch sử này.

Ngoài chiến trường, bộ đội ta đang chuyển từ giai đoạn cầm cự sang giai đoạn phản công, những tin thắng lợi liên tiếp đưa về làm nức lòng người ở hậu phương. Chiến trường mở rộng, yêu cầu sức người, sức của cho kháng chiến ngày càng lớn, cùng với việc đóng góp lương thực, thực phẩm, nhân dân các làng ở Thọ Ngọc (cũ) đã lên đường tham gia dân công tiếp vận. Toàn xã đã tham gia 9 đợt dân công của các chiến dịch, như: chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Tây Bắc, riêng chiến dịch Điện Biên Phủ tham gia 4 đợt, với 1.272 lượt người tham gia.

Dù trong hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn đủ bề, nhưng công tác văn hóa - xã hội ở các làng Thọ Sơn vẫn tiếp tục phát triển. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục được đẩy mạnh, đến năm 1949, Thọ Ngọc (cũ) đã được công nhận hoàn thành việc xóa mù chữ. Cũng trong năm 1949, trường tiểu học của xã ra đời đảm nhận dạy chương trình phổ thông do Bộ Giáo dục Quốc gia ban hành. Ngoài trường công lập trong xã còn có trường dân lập, với hình thức “cả làng góp chung gạo nuôi một thầy giáo”, như gợi ý của Hồ Chủ tịch trong lần về thăm Thanh Hóa. Phong trào giáo dục phát triển đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ cán bộ cho các đoàn thể và chính quyền các cấp.

Trong điều kiện còn thiếu thốn thuốc tây, trong khi bệnh nhân nhiều người là dân công từ các chiến dịch trở về, đội ngũ cán bộ y tế tích cực vận động nhân dân trồng cây thuốc nam để chữa bệnh. Mặt khác, cấp ủy, chính quyền tăng cường chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường, phát động phong trào ăn chính, uống sôi, làm nhà vệ sinh không để cho dịch bệnh bùng phát.

Công tác thông tin, tuyên truyền, văn nghệ tiếp tục phát triển. Mỗi làng đều có một thông tin viên, kịp thời thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của chính quyền cách mạng đến nhân dân. Những tin chiến thắng từ mặt trận gửi về luôn làm nức lòng người ở hậu phương, động viên mọi người hăng say sản xuất. Những gương người tốt, việc tốt, chính sách của Chính phủ còn được tuyên truyền bằng thơ, vè cho dễ nhớ dễ thuộc.

Đội văn nghệ các làng thường tổ chức nhân các ngày lễ tết, hay kết thúc chiến dịch, mừng chiến thắng. Mỗi khi đội văn nghệ biểu diễn, các gia đình khá giả thường giành nhau nấu cơm phục vụ đội. Có gia đình phú hào ở làng Bứa, Làng Pheo, Bái Đề… còn bỏ tiền mời các gánh hát từ nơi khác về phục vụ nhân dân. Phong trào văn nghệ phát triển mạnh đã tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi ở làng quê, động viên mọi người hăng hái thi đua sản xuất và lên đường phục vụ kháng chiến.

Ngày 11 - 2 - 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được khai mạc tại Tuyên Quang (Việt Bắc). Đại hội đã quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Cuối năm 1951, Chi bộ Đảng Thọ Ngọc (cũ) chính thức ra hoạt động công khai đã đặt niềm tin tưởng vững chắc cho cán bộ và nhân dân trong xã vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Để củng cố và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, từ năm 1951 Đảng ta tạm thời dừng việc kết nạp Đảng viên mới. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ Thọ Ngọc (cũ) tập trung củng cố tổ chức đảng với hai nhiệm vụ cụ thể là: bồi dưỡng cán bộ học tập lý luận và nâng cao chất lượng phê bình và tự phê bình. Thời gian này, Huyện ủy mở các lớp bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, tại đây, người dự học được nghiên cứu các tài liệu như: “Sửa đổi lề lối làm việc” của tác giả XYZ (Hồ Chủ tịch), tập san sinh hoạt Đảng, tu dưỡng đảng viên, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở tài liệu của các lớp bồi dưỡng này, chi bộ đã quán triệt tới toàn thể đảng viên, qua đợt sinh hoạt chính trị này cán bộ, đảng viên trong chi bộ hiểu sâu sắc thêm đường lối lãnh đạo của Đảng, những yêu cầu và nhiệm của địa phương trong giai đoạn cách mạng mới.

Đồng thời với việc bồi dưỡng lý luận, theo hướng dẫn của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ tập trung chỉ đạo các tổ đảng, đảng viên làm tốt công tác phê bình và tự phê bình. Trong phê bình, mọi người đều quán triệt lời dạy của Hồ Chủ tịch: “thân ái với nhau nhưng không che đậy những điều dở. Học cái hay, sửa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kị và khinh rẻ những kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị”([23]). Trong đợt sinh hoạt chính trị lần này, chi bộ đã kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên kém phẩm chất, trì trệ, sợ hy sinh gian khổ, từ đó chất lượng đảng viên ngày càng được củng cố, tăng thêm sức chiến đấu của Đảng.

Từ năm 1952, thực hiện chủ trương của Liên khu IV, Chi bộ Thọ Ngọc (cũ) lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn nhằm đập tan âm mưu chống phá của bọn phản động. Nhân dịp này nhân dân đưa những người còn dây dưa không chịu nạp thuế, những người cố tình trốn dân công ra kiểm điểm trước quần chúng. Qua cuộc đấu tranh này đã nâng cao uy thế chính trị của người lao động, giáo dục những người mắc sai lầm hối cải, giữ vững an ninh chính trị ở làng quê, thúc đẩy việc thực hiện tổng động viên nhân lực, tài lực phục vụ kháng chiến, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.

Tháng 10 năm 1953, để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, đoàn thể và nhân dân tiến hành phát động quần chúng triệt để giảm tô. Do làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nên việc triệt để giảm tô đã giành thắng lợi, khích lệ mạnh mẽ quân, dân hăng hái tham gia kháng chiến.

Tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhân dân các làng của Thọ Sơn đã cùng cả nước hướng về Điện Biên Phủ, huy động cao nhất sức người, sức của cho chiến dịch giành toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của dân tộc. Chiều ngày 7 - 5 - 1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng của quân đội ta phấp phới bay trên nóc hầm chỉ huy của quân đội viễn chinh Pháp.

Tổng kết 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), các làng của Thọ Sơn cùng nhân dân xã Thọ Ngọc (cũ) đã huy động hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm cho chiến trường, hàng nghìn thanh niên lên đường nhập ngũ, tham gia dân công phục vụ các chiến dịch. Nhiều chiến sỹ đã hiến trọn tuổi xuân, hay một phần xương máu của mình vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

Với những thành tích đạt được, tổng kết 9 năm kháng chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã đã vinh dự được Đảng, Chính phủ, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, huyện Thọ Xuân tặng nhiều huân chương, huy chương, bằng khen, giấy khen và nhiều hình thức ghi công khác. “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó, tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó”([24]). Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tự hào và vinh dự đã có những đóng góp nhỏ bé của mình trong chiến công chung của dân tộc.

Chương III

CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1954 - 1975)

I. KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HÓA, GÓP PHẦN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 - 1965)

1. Tiến hành cải cách ruộng đất

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Theo hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 20 tháng 7 năm 1954), miền Bắc nước ta từ vĩ tuyến 17 trở ra hoàn toàn giải phóng; ở miền Nam, chính quyền tay sai phản động Ngô Đình Diệm được sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ, đã phản bội Hiệp định Giơ-ne-vơ, ngang nhiên đặt ách thống trị thực dân kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta.

Đứng trước bối cảnh lịch sử đó, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng Việt Nam là: miền Bắc phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, gắn bó, thúc đẩy lẫn nhau.

Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, các tầng lớp nhân dân xã Thọ Sơn hăng hái bắt tay ngay vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Để phù hợp với tình hình cách mạng mới, theo chỉ đạo chung, tháng 8 năm 1953, thực hiện chỉ đạo điều chỉnh lại địa giới các xã của huyện Thọ Xuân theo hướng chia các xã lớn thành các xã nhỏ hơn để tiện cho quản lý xã hội, xã Thọ Ngọc (cũ) được chia 3 xã: Thọ Sơn, Thọ Cường, Thọ Ngọc. Xã Thọ Sơn có 3 dân tộc an em là: Mường, Thái, Kinh, phân bố ở các làng bản truyền thống gồm: Bái Đề, làng Bứa, làng Pheo, Đồng Cổ, Ổ Công, Nác Nã, Đồng Ao, Đồng Chiêm, Đồng Sang, Bao Lâm, làng Tiên. 

Để nhanh chóng ổn định tình hình, chính quyền xã Thọ Sơn nhanh chóng được thành lập. Một số đồng chí giữ các chức danh chủ chốt của Ủy ban kháng chiến hành chính xã khi mới thành lập gồm:

Đồng chí Bùi Ngọc Chuyên làm Chủ tịch.

Đồng chí Bùi Văn Nghĩa làm Phó Chủ tịch tư pháp.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thư làm Phó Chủ tịch tài mậu.

Đồng chí Lê Đình Phán làm xã đội trưởng.

Cùng với việc thành lập xã, ngày 15 - 2 - 1953, theo quyết định của Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ Thọ Sơn chính thức được thành lập gồm 20 đảng viên trước đây sinh hoạt tại Chi bộ Thọ Ngọc (cũ). Đồng chí Lê Văn Tý được cử làm Bí thư lâm thời.

Các tổ chức đoàn thể được thành lập gồm:

Ông Nguyễn Xuân Thư làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã[25].

Ông Lê Đình Văn làm Bí thư Đoàn xã.

Bà Lê Thị Qua làm Bí thư Hội Phụ nữ xã.

Bà Bùi Thị Nguyên làm Bí thư Nông hội.

Sau thời gian chuẩn bị, được sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, ngày 15 - 4 - 1954, Chi bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ nhất. Đại hội bầu Ban Chấp hành Chi bộ gồm 5 đồng chí, đồng chí Lê Văn Tý được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã làm Phó Bí thư, đồng chí Lê Xuân Thìn làm Trực Đảng.

Chi bộ đã ra nghị quyết quan trọng đánh giá việc lãnh đạo các phong trào cách mạng thời gian qua, đồng thời đề ra phương hướng hoạt động thời gian tới. Trong đó tập trung giải quyết vấn đề cứu đói cho nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự của địa phương.

Trong lúc Chi bộ và nhân dân Thọ Sơn đang ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện kế hoạch Ba năm khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa (1954 - 1957)  do Đảng đề ra thì tháng 9 - 1954, một trận lụt lớn chưa từng có xảy ra trên địa bàn Thanh Hóa. Đê sông Chu bị vỡ tại Liên Phô (Thọ Xuân) gây nên trận lụt lớn trên địa bàn huyện Thọ Xuân và nhiều huyện ở Thanh Hóa, nước sông dâng cao tàn phá nhiều hoa màu ở một số làng của Thọ Sơn, nhất là các làng có địa hình thấp như: Bái Đề, làng Pheo, làng Bứa...

Đến vụ chiêm năm 1955, Thọ Sơn bị hạn nặng, chi bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân chống hạn cứu lúa. Một mặt, xã cử gần 100 dân công lên công trường đắp đê, sửa đập Bái Thượng, mặt khác phát động toàn dân ra sức chống hạn cứu lúa. Với phương châm “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, nhân dân đã huy động hàng trăm gàu sòng, gàu gai tát nước từ ao ra ruộng, trên các cánh đồng caonhân dân đào được hơn 12 giếng (còn gọi là hố tiểu thủy nông), có giếng rộng tới nửa sào ruộng để lấy nước sản xuất.

Đứng trước thử thách mới, cấp ủy, chính quyền tập trung cứu đói cho nhân dân với phương châm “cứu đói như cứu hỏa”. Chi bộ chỉ đạo các đoàn thể tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cưu mang đùm bọc lẫn nhau, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau vượt qua nạn đói. Động viên các làng khu vực miền núi, như: Nác Nã, Ổ Công… ủng hộ nhân dân các làng bị lụt sắn, khoai, hoặc cho vay không lấy lãi. Mặt khác, Chi bộ, chính quyền kêu gọi nhân dân tích cực tăng gia sản xuất như: trồng sắn, khoai, dong riềng, rau muống... Toàn xã đã khai hoang, phục hóa được hơn 12 mẫu ruộng, đồi để mở rộng diện tích sản xuất, chủ yếu là trồng sắn, khoai. Để cứu đói cho dân, tỉnh đã cho Thọ Sơn vay 950kg thóc, chính quyền đã kịp thời phân phát cho các gia đình khó khăn nhất. Bằng các biện pháp trên, trong thời gian ngắn, nạn đói được giải quyết, cuộc sống nhân dân dần ổn định, cả xã không có ai bị chết đói.

Vào vụ cấy, Thọ Sơn thiếu giống nặng, huyện phải cho vay 817 kg thóc giống, đợt 2 được bổ sung 285 kg để sản xuất. Nước rút đến đâu, sản xuất đến đó. Với khẩu hiệu “Trời làm mất, bắt đất phải đền”, nhân dân vào vụ với một quyết tâm cao để giành một vụ chiêm thắng lớn.

Vừa đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, Thọ Sơn còn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ huyện giao. Ngoài số dân công đi đắp đê sông Chu, tháng 10 năm 1955, Thọ Sơn lại điều 58 dân công đi làm tuyến đường 217 kéo dài 5 tháng. Ở địa phương, Chi bộ tổ chức làm giao thông nông thôn mở rộng đường thôn xóm, phát quang bụi rậm, đặc biệt là mở rộng các con đường liên hương nối giữa các làng thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân.

Cách mạng thành công nhưng khẩu hiệu, cũng là ước mơ ngàn đời của người nông dân “Người cày có ruộng” vẫn chưa trở thành hiện thực. Nhằm hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 4 - 12 - 1953, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột.

Trên cơ sở thành công của đợt giảm tô, nông dân Thọ Sơn bước vào cải cách ruộng đất với một khí thế: “Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”, “Ngàn năm bể động một lần. Trời rung, đất chuyển nhân dân vui mừng”. Đội cải cách về xã, trước hết tìm hiểu tình hình địa phương, “bắt rễ, sâu chuỗi” với thành phần bần, cố nông để làm chỗ dựa. Tiến hành phân loại thành phần giai cấp, phân định rõ nông dân và địa chủ. Sau đó với phương châm “dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết với trung nông, liên hiệp với phú nông, cô lập địa chủ” để thực hiện cải cách ruộng đất.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, đội cải cách đã tiến hành tuyên truyền cho giai cấp nông dân thấy rõ sự bất công của chế độ cũ, tích cực tham gia, giúp đỡ đội cải cách tiến hành nhiệm vụ, không khí đấu tranh ở các làng sôi sục, nông dân đấu tố mạnh mẽ, tố cáo sự bóc lột của địa chủ, cường hào, ác bá.

Đội cải cách đã đọc lệnh trưng thu, trưng mua tài sản của các gia đình địa chủ gồm hàng chục mẫu ruộng, hàng chục căn nhà, hàng trăm trâu bò và nhiều tài sản, công cụ khác. Số tài sản thu được của địa chủ được chia cho nông dân theo nguyên tắc: “thỏa mãn bần, cố, chiếu cố trung nông, đả thông địa chủ”.

Qua cuộc cải cách ruộng đất, ưu thế của giai cấp nông dân được đề cao hơn bao giờ hết, vị thế chính trị của giai cấp địa chủ bị đè bẹp, chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất hàng ngàn năm bị xóa bỏ. Tất cả bần, cố nông trong xã được chia ruộng đất và nông cụ sản xuất, nhà ở. Mơ ước ngàn đời của người nông dân “người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi có tính chất chiến lược của cải cách ruộng đất, trong quá trình thực hiện ở xã Thọ Sơn cũng như các địa phương ở miền Bắc đã phạm phải một số sai lầm làm ảnh hưởng đến đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong nội bộ Đảng, đoàn kết ở nông thôn, như: không ưu tiên địa chủ kháng chiến, quy oan một số gia đình cán bộ, đảng viên, dập khuôn máy máy khi đề ra tỷ lệ phần trăm số địa chủ, tổ chức đảng ở địa phương không còn thực quyền trong cải cách ruộng đất…

Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy Thọ Xuân, đầu tháng 11 năm 1956, Chi bộ Đảng, Ủy ban nhân dân xã Thọ Sơn đã triển khai quán triệt Nghị Quyết 10 của Ban Chấp hành Trung ương và thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương về công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất ở địa phương. Chỉ sau thời gian ngắn, đến tháng 12 năm 1956 đã thu được kết quả, có 30% trong tổng số các gia đình địa chủ, phú nông, trung nông được hạ thành phần. Huyện ủy Thọ Xuân cũng đã có quyết định khôi phục lại đảng tịch cho 3 đảng viên bị xóa Đảng tịch trong cải cách ruộng đất. Số gia đình bị quy sai thông cảm với đội cải cách, những gia đình bần, cố nông đã trả lại nhà cửa, ruộng đất, nông cụ cho các gia đình bị quy sai.

Công tác sửa sai đạt kết quả đã góp phần tạo sự đoàn kết ở nông thôn; tình làng, nghĩa xóm, tình anh em, bè bạn, cha con được cải thiện hơn. Trật tự an ninh được giữ vững, các tầng lớp nhân dân ổn định sinh hoạt, đời sống đã thúc đẩy phong trào thi đua khôi phục kinh tế, xã hội ở địa phương.

Về công tác Đảng, đội cải cách ruộng đất về tiến hành sắp xếp lại công tác tổ chức, tháng 5 năm 1955, đồng chí Bùi Văn Năm làm Bí thư Chi bộ. Đến tháng 12 năm 1955, đồng chí Lê Văn Tý làm Bí thư thay đồng chí Bùi Văn Năm. Đây là giai đoạn công tác lãnh đạo, quản lý ở địa phương có nhiều xáo trộn, kinh tế gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên, Chi bộ đã lãnh đạo chính quyền, đoàn thể vượt qua khó khăn từng bước ổn định đời sống nhân dân, đấy mạnh sản xuất.

Các đoàn thể quần chúng được đổi tên gọi, cụ thể:

- Mặt trận Liên Việt đổi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Hội Phụ nữ cứu quốc đổi tên là Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

- Đoàn Thanh niên cứu quốc đổi tên thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.

- Hội Nông dân cứu quốc đổi tên thành Hội Nông dân Việt Nam.

Quán triệt, thực hiện chỉ thị, nghị quyết cấp ủy cấp trên về nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, Chi ủy xã đã đề ra các giải pháp, phát động toàn dân dấy lên phong trào thi đua, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế. Trước hết là vận động nhân dân tham gia tổ đổi công.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thiên tai, như đa số các làng đều thành lập được  từ 2 đến 6 tổ. Các tổ đổi công ra đời tạo điều kiện cho nhân dân giúp nhau trong sản xuất... Tuy phong trào tổ đổi công chưa thực sự mạnh mẽ, nhưng đây là việc làm quan trọng, bước đầu đưa người nông dân vào làm ăn tập thể,

Công tác giáo dục được cấp ủy, chính quyền chú trọng. Năm học 1955 - 1956, Trường cấp I Thọ Sơn được thành lập gồm có 2 lớp ở thôn Bái Đề, lớp1 đặt tại nhà ông Trịnh Huy Long do thầy giáo Chất (Thiệu Hóa) dạy, lớp 2 đặt tại nhà ông Trịnh Như Huy do thầy giáo Lệ (Thọ Trường, Thọ Xuân) dạy. Từ năm 1957, các lớp học được chuyển về làng Ngô Công, trên khu đất nhà ông Cố Sâm, cố Thịnh, cố Thư. Số học sinh có trên 50 cháu, gồm lớp 1, lớp 2, lớp 3. Tuy buổi đầu điều kiện phục vụ cho giảng dạy, học tập của thầy và trò gặp nhiều khó khăn, nhưng được cấp ủy, chính quyền và nhân dân luôn quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho con em học tập.

Sau 3 năm (1955 - 1957), dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, các tầng lớp nhân dân Thọ Sơn đã từng bước đẩy lùi khó khăn, thử thách, nhanh chóng phục hồi được sản xuất, phát triển kinh tế - văn hóa, từng bước ổn định tình hình chính trị và đời sống của nhân dân. Thành tích đó, đã tạo tiền đề cho những bước phát triển mới của phong trào cách mạng địa phương trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tiếp theo.

2. Thực hiện phong trào 3 ngọn cờ hồng (1958 - 1960)

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, tháng 12 năm 1958, Chi bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ IV để đánh giá việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ vừa qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ mới. Đồng chí Bùi Văn Thuyết được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ này trong bối cảnh miền Bắc đang sôi động thực hiện phong trào 3 ngọn cờ hồng, với mục tiêu là xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể.

Tháng 5 năm 1958, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (khóa II) đã đề ra Nghị quyết về việc cải tạo các thành phần kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cá thể. Quán triệt và học tập tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 14, Chi bộ đã chỉ đạo các đoàn thể quần chúng tuyên truyền vận động nông dân tự nguyện viết đơn xin gia nhập hợp tác xã.

Sau thời gian vận động tuyên truyền và giác ngộ với phương châm: “tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi”, một số hộ nông dân đã tình nguyện làm đơn gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Trên cơ sở lựa chọn những tổ đổi công làm ăn có hiệu quả, quản lý, điều hành tốt, Chi bộ, chính quyền xã Thọ Sơn quyết định thành lập hợp tác xã Đại Đồng vào tháng 1 năm 1958. Đại hội xã viên đã thống nhất bầu ông Lê Đức Nhẩn là Chủ nhiệm hợp tác xã.

Đến tháng 1 năm 1959, Thọ Sơn thành lập được thêm 5 hợp tác xã nông nghiệp gồm:

Hợp tác xã Bái Đề, do ông Nguyễn Văn Dong làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Ngô Công, do ông Quách Văn Thư làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Đồng Sang, do ông Bùi Khắc Bơn làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Bao Lâm, do ông Bùi Văn Tía làm Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Cựu Tiến, do ông ……. làm Chủ nhiệm.

Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng ta thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt “ai thắng ai” giữa hai con đường làm ăn tập thể và làm ăn cá thể ở nông thôn. Đây cũng là thước đo về phẩm chất, đạo đức, lập trường giai cấp của đảng viên, thước đo về sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Chi bộ xã nhà.

Chi ủy xã đã tổ chức nhiều đợt học tập từ trong Đảng đến quần chúng, tổ chức tuyên truyền cổ động khắp các thôn xóm, với nhiều hình thức như làm ca dao cho người dân dễ nhớ, dễ thuộc. Cho đến nay nhiều người vẫn nhớ những câu ca dao như:

Sáng trăng sáng cả sân đình

Sao cô làm cỏ một mình hỡi cô?

Để cho cỏ mọc lút bờ

Một mình cô phải trỉu lo trăm đường!

Cùng với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, Chi bộ tập trung xây dựng hợp tác xã Tín dụng và hợp tác xã mua bán. Đây là 3 mô hình kinh tế tập thể ở nông thôn có tác dụng tác động lẫn nhau cùng phát triển, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển hài hòa ở nông thôn. Phong trào xây dựng 3 loại hình hợp tác xã là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của thời kỳ này được gọi là phong trào “Ba ngọn cờ hồng”.

Sau thời gian vận động, đến năm 1958, hợp tác xã tín dụng ra đời, với số vốn 2.500 đồng huy động bằng hình thức đóng cổ phần. Hợp tác xã tín dụng tổ chức Đại hội xã viên, ông Lê Đình Vẹ được bầu làm Chủ nhiệm đầu tiên của hợp tác xã. Việc thành lập các hợp tác xã tín dụng cũng theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Các xã viên tham gia bằng hình thức mua cổ phần, lợi tức được chia theo cổ phần.

Việc xây dựng 3 ngọn cờ hồng của địa phương là một đóng góp tích cực trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn ở Thọ Sơn, là bước chuyển quan trọng từ sở hữu cá thể sang sở hữu tập thể để bước tới chế độ sở hữu toàn dân. Chi bộ đã đề ra phương hướng giai đoạn mới, trong đó tập trung đẩy mạnh việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương.

Trong công tác lãnh đạo, chi bộ nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác xây dựng các tổ chức đoàn thể và chính quyền ở địa phương. Đây là giai đoạn các tổ chức trong địa phương, nhất là Đoàn thanh niên và Hội Phụ nữ có nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi, đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xây dựng đời sống mới.

Những năm vừa qua, được sự  quan tâm chỉ đạo của chi bộ, bộ máy chính quyền ở Thọ Sơn từng bước được kiện toàn và đi vào ổn định. Tuy nhiên, do trình độ số đông cán bộ lại hạn chế, nên trong công việc không tránh khỏi lúng túng, sai lầm. Để chính quyền thật sự là của dân, do dân và vì dân, Chi bộ đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị 46-TT/CP ngày 19 - 4 - 1960 về công tác giải quyết khiếu tố, khiếu nại của nhân dân. Qua đợt học tập này, bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của một số cán bộ giảm hẳn. Cũng qua phát hiện của quần chúng để nhắc nhở và kiểm điểm các cán bộ hợp tác xã nông nghiệp làm thất thoát tài sản công, hoặc tinh thần trách nhiệm chưa cao.

Về công tác Đảng, tháng 12 năm 1959, Chi bộ tổ chức Đại hội lần thứ V, đồng chí Lê Văn Tý được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư. Sau Đại hội, Cấp ủy Đảng tập trung quán triệt, học tập Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (mở rộng), tháng 4 năm 1959 về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp. Qua đợt học tập, đại đa số đảng viên xác định rõ nhiệm vụ chính trị, đồng thời giữ vững và phát huy tinh thần, lập trường giai cấp, nỗ lực đi đầu và vận động nhân dân làm theo. Nhờ vậy, đến năm 1960, có gần 80% số hộ ở các làng gia nhập hợp tác xã nông nghiệp.

Như vậy, 5 năm sau ngày hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đã từng bước vượt qua khó khăn, giành được những kết quả bước đầu trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng. Địa phương đã tiến hành cải cách ruộng đất, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể thông qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa xã hội quan trọng trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương.

3. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)

Tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc và chỉ tiêu phương hướng kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) với nội dung: “Phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển nông nghiệp, hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với nông nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh...[26]

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, từ năm 1961, Thọ Sơn cùng với nhân dân miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất với nhiều phong trào thi đua sôi nổi.

Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng cấp trên, Chi bộ Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chính trị của địa phương thời điểm này là: Tiếp tục, đẩy mạnh đưa hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao, với quy mô liên xóm, liên thôn; từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; xây dựng hợp tác xã mua bán, hoàn thành mục tiêu xây dựng 3 ngọn cờ hồng ở địa phương...

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, tháng 12 năm 1961, Chi bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ VI. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, đồng chí Bùi Bá Hậu được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đại hội đã đánh giá cao thành tích mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong nhiệm kỳ qua, đề ra phương hướng nhiệm kỳ mới, đồng thời kêu gọi cán bộ và nhân dân trong xã phát huy truyền thống của quê hương, vượt mọi khó khăn vươn lên giành những thắng lợi trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng.

Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương. Trong đó tập trung chỉ đạo cuộc vận động thi đua học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), do Trung ương Đảng phát động. Phong trào đã tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong các hợp tác xã nông nghiệp. Xã viên thi đua tăng năng suất với khí thế Đại Phong trên mỗi đường cày, mỗi rãnh cấy, luống khoai. Ở bất cứ công việc nào cũng cố gắng làm có năng suất cao, chất lượng tốt. Trên các ruộng bèo hoa dâu, trên cán đồng lúa cao sản, trên các công trình thủy lợi, Đoàn Thanh niên phấn đấu đạt danh hiệu “Trai gái Đại Phong”, “Thanh niên Tháng Tám” với từng mức chỉ tiêu cụ thể.

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 1962, Chi bộ Thọ Sơn tập trung lãnh đạo đưa các hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Đây là bước chuyển rất quan trọng trong việc từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn. Đồng chí Trường Chinh đã nói: “Tổ đổi công là mầm mống của chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã bậc thấp là nửa chủ nghĩa xã hội, hợp tác xã bậc cao là hoàn toàn chủ nghĩa xã hội”.([27]) Theo mô hình hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trước kia, xã viên góp ruộng đất, trâu bò vào làm ăn chung, phân phối sản phẩm vừa chia theo hoa lợi, vừa chia theo lao động. Như vậy trên thực tế, ruộng đất, trâu bò vẫn thuộc sở hữu cá nhân. Trong khi đó, mô hình hợp tác xã nông nghiệp bậc cao, tư liệu sản xuất được sở hữu tập thể, bằng cách tính theo cổ phần, gia đình nào ít tư liệu hơn mức bình quân chung thì đóng góp bằng tiền trong 3 vụ. Sản phẩm được chia hoàn toàn theo lao động. Đây là điểm mới đụng chạm đến quyền lợi những gia đình nhiều ruộng đất, trâu bò, nên nhiều người không đồng tình. Nhưng nhờ có sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, chính quyền, làm tốt khâu tuyên truyền, vận động hiệu quả nên nhân dân phấn khởi, thi đua xây dựng hợp tác xã.

Đồng thời với việc đưa hợp tác xã nông nghiệp lên bậc cao, Đảng bộ tập trung lãnh đạo xây dựng hợp tác xã toàn thôn và hợp tác xã liên thôn. Đến năm 1963, toàn xã còn 4 hợp tác xã là:

Hợp tác xã Cựu Tiến.

Hợp tác xã Bao Lâm.

Hợp tác xã Ngô Công.

Hợp tác xã Đại Đồng.

Giai đoạn này, Đảng bộ tập trung lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng hệ thống thủy lợi, sân kho, lán trại để phục vụ sản xuất. Tích cực chuẩn bị nguồn phân, chủ động tưới tiêu, áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất, đưa giống mới vào sản xuất, khiến năng suất lúa từng bước được nâng lên.

Dù có nhiều cố gắng, nhưng sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn còn vô vàn khó khăn. Cơ sở vật chất các hợp tác xã thiếu thốn, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, đội ngũ cán bộ trình độ văn hóa còn thấp, lại là bước đi ban đầu nên vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Địa phương đất rộng, người thưa nhiều khu đồng phải bỏ hoang hóa, như: Bờ Tiên, Đồng Chảo, Giếng Lắng, Nổ Mọ, Đồng Chiêm, Rộc San… Nhân dân chỉ sản xuất được những khu vực có nước và làm nương rẫy, chủ yếu vẫn là tự cung, tự cấp…

Năm 1963, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế miền núi của Đảng, hàng trăm lao động từ các xã Xuân Thành, Xuân yên, Phú Yên về địa phương định cư. Vùng đất bà con định canh, định cư khai hoang được nay thuộc làng… và một phần thuộc Nông Trường Sao Vàng.

Giai đoạn này, các hợp tác xã nông nghiệp ở Thọ Sơn thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, vững chắc”. Cuộc vận động được chia làm 2 vòng:

Vòng 1: giúp các hợp tác xã xác định phương hướng sản xuất, lập kế hoạch từng vụ, từng năm; định mức khoán đến từng việc, lập sổ sách thống kê, kế toán về lao động và đất đai.

Vòng 2: giúp các hợp tác xã xác định phương hướng sản xuất, lập kế hoạch từng vụ, từng năm; định mức khoán đến từng việc, định mức chế độ tiền công, thực hiện chế độ 3 khoán, 3 quản và hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo đúng quy định của Bộ Tài chính.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng ủy xã đã làm thí điểm để rút kinh nghiệm ở hợp tác xã Đại Đồng, từ đó chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp trong xã.

Trong quá trình thực hiện, huyện, tỉnh đã cử “cán bộ cải tiến” về giúp đỡ địa phương. Qua quá thực hiện, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất của đội ngũ cán bộ từ các đội sản xuất đến ban quản trị hợp tác xã được nâng lên một bước. Hoạt động của hợp tác xã đã dần dần đi vào nền nếp, việc bình công chấm điểm thực hiệncông bằng hơn. Các công việc như, làm thủy lợi, làm phân bón, chủ động tưới tiêu, áp dụng khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất, đưa giống mới vào sản xuất được duy trì hiệu quả.

Cuối năm 1963, việc đưa hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao ở địa phương đã hoàn thành. Tuy nhiên, quá trình hình thành quan hệ sản xuất mới ở Thọ Sơn là một quá trình diễn ra lâu dài, gay go và phức tạp. Đây là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cá nhân và tinh thần tập thể, giữa tư tưởng tiến bộ với những thói quen, hủ tục có từ ngàn đời nay của người dân. Hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, “chân ngoài dài hơn chân trong”, làm việc kiểu “tối ngày đầy công” nảy sinh ở một bộ phận xã viên, hiện tượng tham ô tài sản, năng lực quản lý hạn chế của một số cán bộ hợp tác xã. Nhiều xã trong huyện Thọ Xuân đã phải chia nhỏ hợp tác xã như trước kia. Trước tình hình ấy, Chi bộ Thọ Sơn đã kịp thời cuộc vận động “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” do Tỉnh ủy Thanh Hóa phát động. Qua đó, phát huy khối đoàn kết toàn dân, nâng cao tinh thần làm chủ tập thể của người lao động. Cuộc vận động đã mang lại hiệu quả rõ rệt, phong trào hợp tác xã tiếp tục được duy trì, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng phát triển.

Thực hiện chỉ đạo của huyện, tháng 8 năm 1963, Thọ Sơn thành lập hợp tác xã mua bán. Mô hình thương nghiệp này cũng được hình thành theo nguyên tắc: quản lý dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi. Nguồn vốn được huy động bằng hình thức mua cổ phần (mỗi cổ phần 5 đồng). Lợi tức của hợp tác xã được chia theo cổ phần. Khi mới thành lập, xã viên mua được 152 cổ phần, với số tiền 760 đồng. Hợp tác xã mua bán đã nhận hàng từ hợp tác xã mua bán huyện Thọ Xuân, đồng thời khai thác nguồn hàng tại địa phương để phục vụ nhân dân.

Thực hiện Quyết định của huyện ủy Thọ Xuân, năm 1963  Đảng bộ Thọ Sơn được thành lập trên cơ sở Chi bộ trước đây. Đảng bộ Thọ Sơn có 50 đảng viên, sinh hoạt ở 5 chi bộ. Đảng bộ đã tiến hành Đại hội, đồng chí Bùi Bá Hậu tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên Chủ tịch Ủy ban hành chính xã tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư[28].

Đại hội tập trung trí tuệ đánh giá tình hình thực hiện công tác nhiệm kỳ qua và khẳng định: kinh tế của địa phương đang từng bước vượt qua khó khăn, có bước phát triển đi lên; công tác cải tiến quản lý trong các hợp tác xã đã đem lại kết quả khả quan; công tác văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng đều được đẩy mạnh.

Sau Đại hội, Đảng ủy đã phát động nhân dân tiếp tục thi đua thâm canh tăng vụ, cải tiến công cụ sản xuất, như: thay cày chìa vôi bằng cày 51, xây dựng nhà kho, nhà ủ giống, xây dựng chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể.

Công tác thủy lợi được Đảng bộ tập trung chỉ đạo, coi đó là chìa khóa để mở rộng diện tích và nâng cao năng suất lúa ở địa phương. Tận dụng các khe suối tự nhiên, Thọ Sơn đã tiến hành đắp đập làm hồ chứa nước để phục vụ sản xuất. Được sự hỗ trợ của huyện, xã đã huy động hàng ngàn ngày công đào đắp hàng ngàn mét khối đất để làm hồ đập Dốc Đất, hồ đập Cố Kỳ. Các hồ đập ra đời đã góp phần tưới cho hàng trăm mẫu ruộng trên địa bàn xã.

Về chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm được phát động, toàn xã có trên 400 con trâu, bò phục vụ cày bừa giải phóng mặt ruộng, nuôi gà, thả cá phục vụ đời sống xã viên và đóng nghĩa vụ thực phẩm cho nhà nước.

Là một xã có nhiều dân tộc sinh sống, có nhiều làng bản xa trung tâm, đường xá đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế còn thiếu thốn nên giáo dục, y tế của xã gặp nhiều khó khăn. Tuy vật, địa phương vẫn chăm lo cải tạo cơ sở vật chất phục vụ việc học tập của các cháu. Trạm xá xã không ngừng nâng cao chất lượng điều trị các bệnh thông thường trong nhân dân. Công tác vệ sinh phòng bệnh được phát động thường xuyên trong xã. Các dịch bệnh, như: sốt rét, đậu mùa, ho lao... ngày càng giảm dần.

Công tác quốc phòng - an ninh được cấp ủy, chính quyền chú trọng. Lực lượng dân quân được tăng cường củng cố và được luyện tập thường xuyên, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương được giữ vững.

Đảng ủy luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng và hệ thống chuyên chính vô sản ở xã. Nêu cao vai trò làm chủ, vận động nhân dân thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nổi bật là phong trào thi đua học tập các điển hình tiên tiến, như: phong trào học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đại Phong (tỉnh Quảng Bình), học tập và đuổi kịp hợp tác xã Đông Phương Hồng (huyện Thọ Xuân), học tập và đuổi kịp trường Cấp 1 Hải Nhân (huyện Tĩnh Gia)…

Thời kỳ 1961 - 1963, Trường Cấp Thọ Sơn mới có lớp 3, học sinh học lên lớp 4 phải chuyển xuống Thọ Cường để học. Đến năm học 1964 – 1965, trường có đủ 4 lớp cấp 1 và 1 lớp 5 là lớp đầu cấp 2. Hiệu Trường là thầy Khoát quê ở xã Thọ Cường. Dù khó khăn, nhưng đội ngũ giá viên vẫn bám lớp, bám trường, vận động các cháu trong độ tuổi ra lớp.

Như vậy, dù gặp nhiều khó khăn do điều kiện chủ quan và khách quan đưa lại, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn vẫn đoàn kết, vượt mọi khó khăn thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất mới bước đầu được hình thành, văn hóa - xã hội có bước phát triển mới, quốc phòng - an ninh được giữ vững, tổ chức đảng, hệ thống chuyên vô sản ngày càng vững mạnh. Đây là tiền đề quan trọng để cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục hành trình trên con đường cách mạng mà Đảng và Hồ Chủ tịch đã lựa chọn.

II.  VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1965 - 1975)

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn này trong điều kiện hết sức khó khăn. Sau khi bị thất bại liên tiếp ở miền Nam, đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cơ - ti Lơ - may, tham mưu trưởng không quân Mỹ huênh hoang tuyên bố “đẩy lùi bắc Việt Nam về thời đồ đá[29]”. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (tháng 3 năm 1965) đã khẳng định: “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào”. Cùng với nhân dân miền Bắc, Thọ Sơn bước vào giai đoạn cách mạng mới, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực chi viện cho miền Nam ruột thịt hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ Thọ Sơn tập trung chỉ đạo chuyển hướng chiến lược sang điều kiện thời chiến, góp phần xây dựng hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam. Việc chuyển hướng trong điều kiện mới phải được thể hiện ở tất cả các mặt: sản xuất, văn hóa, an ninh quốc phòng, đời sống xã hội.

1. Trên mặt trận sản xuất

Bước vào thời kỳ mới, đơn vị hành chính huyện có sự thay đổi. Thực hiện Quyết định 177/QĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 1964, của Chính phủ, 20 xã phía bắc của huyện Nông Cống và 13 xã phía nam của huyện Thọ Xuân được tách khỏi huyện cũ để thành lập huyện Triệu Sơn. Từ đây xã Thọ Sơn thuộc huyện Triệu Sơn.

Tháng 4 năm 1965, thực hiện hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ VIII. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 7 đồng chí, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên được bầu làm Bí thư, đồng chí Quách Văn Đản Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm kỳ mới, trong đó: tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho miền Nam ruột thịt; tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; tập trung chỉ đạo chuyển hướng chiến lược sang điều kiện thời chiến, góp phần xây dựng hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam.

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức đảng 4 tốt, đảng viên 4 tốt, làm cho mỗi chi bộ thực sự là hạt nhân chính trị ở nông thôn... Đảng bộ đã đề ra yêu cầu cụ thể đối với đảng viên, đối với chi bộ, tổ đảng để biến cuộc vận động trên thànhnhiệm vụ quan trọng của thời kỳ này.

Năm 1970, Đảng ta chủ trương phát động 3 cuộc vận động lớn: vận động lao động sản xuất, vận động phát huy dân chủ và chế độ làm chủ tập thể ở nông thôn, vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp “lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Việc đề ra 3 cuộc vận động trên cho thấy quyết tâm của Đảng ta ra sức tranh thủ thời cơ thuận lợi, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, yếu kém để đẩy mạnh sản xuất, tăng cường lực lượng kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, đẩy mạnh chi viện cho cách mạng miền Nam.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy Thanh Hóa, hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể, hợp tác xã đẩy mạnh phong trào thi đua “chống Mỹ cứu nước” do Tỉnh ủy phát động (tháng 4 - 1965). Đồng thời hướng dẫn từng đàon thể, từng hợp tác xã, tổ chức đoàn thể xây dựng chỉ tiêu và giao ước thi đua “3 giỏi thắng Mỹ”([30]).

Ngoài mặt trận tin chiến thắng liên tiếp báo về làm nức lòng nhân dân cả nước, ở hậu phương nhân dân Thọ Sơn hăng hái lập công thi đua với tiền tuyến. Giai đoạn này, có thời điểm máy bay Mỹ gầm rú suốt ngày đêm trên bầu trời Thọ Sơn. Nhưng cũng chưa bao giờ không khí toàn dân thi đua sản xuất, sẵn sàng đánh Mỹ ở Thọ Sơn lại cao như thời gian này. Các khẩu hiệu: Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, Giặc đến là đánh, giặc đi lại sản xuất, phong trào thi đua 3 giỏi, phong trào mỗi người làm việc bằng hai, phong trào 3 sẵn sàng, 3 đảm đang, phong trào 5 tấn thắng Mỹ đã trở thành động lực mạnh mẽ cuốn hút đông đảo cán bộ và nhân dân Thọ Sơn. Chính vì vậy, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, nhưng sản lượng lương thực, thực phẩm của xã vẫn liên tục tăng.

Để từng bước đẩy mạnh sản xuất phát triển, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng ủy đã lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện cuộc vận động cải tiến công tác quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (vòng 2) từ năm 1967 đến năm 1972. Mục tiêu là giúp các hợp tác xã định mức lao động, xếp loại công việc, định chế độ tính công điểm, thực hiện 3 khoán, 3 quản và hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo quy định của Bộ Tài chính([31]).

Qua thực hiện cuộc vận động này, hoạt động của Ban Quản trị hợp tác xã dần đi vào nền nếp, việc điều hành sản xuất, nhất là công tác khoán được tiến hành thuận lợi hơn. Cán bộ hợp tác xã nắm được mục đích, ý nghĩa của công tác khoán đối với việc phát huy tiềm năng lao động trong hợp tác xã. Đặc biệt là nắm được phương pháp xác định khối lượng công việc từ đó đề ra mức khoán phù hợp. Trên cơ sở thực hiện chế độ 3 khoán, các hợp tác xã đẩy mạnh 3 mục tiêu trong công nghiệp: 5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động/ha gieo trồng. Có thể nói phong trào thi đua giành 3 mục tiêu trong nông nghiệp, mà trọng tâm là mục tiêu giành 5 tấn thóc/ha gieo trồng (cả năm) đã tạo động lực thi đua sôi nổi trong suốt thời gian dài, có tác dụng to lớn thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Đến năm 1967, năng suất bình quân toàn xã đạt 4,5 tấn/ha/năm, riêng hợp tác xã Đồng Sang được huyện công nhận đơn vị đạt năm tấn thóc/ha gieo trồng.

Trong những ngày sục sôi đánh Mỹ, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ IX và lần thứ X vào năm 1967 và năm 1969. Trong cả 2 kỳ Đại hội này, đồng chí Bùi Ngọc Chuyên tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Bùi Văn Chế, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Với tinh thần lạc quan tin tưởng và khí thế quyết chiến, quyết thắng, Nghị quyết các Đại hội đã nhiệt liệt biểu dương tinh thần tiến công cách mạng của cán bộ và nhân dân trong xã trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Vượt qua muôn vàn khó khăn, cán bộ và nhân dân đã bám đồng ruộng, “tay cày, tay súng” vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Thọ Sơn luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, chi viện tích cực cho chiến trường miền Nam.

Đại hội cũng đã nêu lên những cố gắng và vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự lãnh đạo sát sao của Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi uỷ, sự điều hành của Ủy ban hành chính xã xã, ban quản trị các hợp tác xã trong việc tập hợp, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tập trung lãnh đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các hợp tác xã xây dựng chương trình hành động đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Các hợp tác xã nông nghiệp nhanh chóng rà soát lại ruộng đồng, quy hoạch bờ vùng, bờ thửa, tăng cường đưa các giống lúa mới vào sản xuất, đẩy mạnh phong trào làm phân, đặc biệt là phong trào nuôi bèo hoa dâu, hướng dẫn nhân dân ủ phân, lấy bùn ao... Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào thi đua 5 tấn thắng Mỹ; củng cố hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể; nâng cao hơn nữa hoạt động của các hợp tác xã, hoàn thành cuộc vận động cải tiến công tác quản lý, kỹ thuật vòng 2 trong các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn xã.

Giai đoạn này, các hợp tác xã nông nghiệp đầu tư mua thêm trâu bò để tăng sức kéo, vận động nhân dân nuôi lợn, phấn đấu bình quân mỗi hộ nuôi được 2 con, chú trọng phát triển đàn lợn nái để cung cấp lợn giống cho nhân dân, phấn đấu đạt tỷ lệ 1 lợn nái/25 đầu lợn ở địa phương, củng cố và mở rộng hoạt động của các trại chăn nuôi lợn tập thể, quản lý tốt đàn trâu bò giao cho dân chăm sóc, ngoài ra hợp tác xã còn có trại bò ở Đồng Cốc với trên 100 con. Kết quả đàn trâu bò trong xã tăng 18%, đàn lợn tăng 31%.

Công tác thuỷ lợi được chú trọng, mỗi hợp tác xã thành lập một đội thủy lợi có nhiệm vụ nạo vét, tu sửa, đắp mới hồ đập, kênh mương, bờ vùng, bờ thửa phục vụ sản xuất. Giai đoạn này Thọ Sơn tiến hành đào đắp hàng ngàn mét khối đất hoàn thành hồ đập Ngọc Mép và hồ đập Ngô Công. Trong đó hồ Ngô Công lớn nhất với diện tích 41ha, lưu lượng nước khoảng 1,5 triệu mét khối nước. Đây là hồ nhân tạo có diện tích lớn nhất trong vùng được đào đắp hoàn toàn bằng sức người với quang gánh, cuốc xẻng thô sơ (cả công trình chỉ có 2 chiếc xe kiến an[32]). Việc hoàn thành công trình hồ đập Ngô công đã cung cấp nước tưới cho phần lớn diện tích đất gieo cấy của xã. Ngoài ra còn phục vụ nước tưới cho xã Thọ Tiến và xã Xuân Thắng. Đây là bài ca đẹp về lòng quả cảm, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Thọ Sơn. Cùng với việc cung cấp nước tưới, phong trài khai hoang tiếp tục được đẩy mạnh, Thọ Sơn đã đưa thêm hàng chục mẫu ruộng vào sản xuất.

Trong năm 1973, Thọ Sơn tích cực hưởng ứng chiến dịch “Na Sơn nổi gió” và chiến dịch “Na Sơn” nổi lửa, nhằm chấn chỉnh hệ thống thủy nông, khắc phục lũ lụt và đẩy mạnh công tác thu chiêm làm mùa. Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, vượt mọi khó khăn thách thức khắc phục hậu quả thiên tai. Qua 2 chiến dịch này, địa phương đã đào đắp hàng ngàn mét khối đất củng cố hồ đập, mương máng, đẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân bằng một khí thế khẩn trương.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, đặc biệt là các chế độ quản lý trong hợp tác xã nông nghiệp. Phong trào áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng xe cải tiến để vận chuyển, đưa các giống lúa có năng suất cao như: chân châu lùn, nông nghiệp 8… vào sản xuất.Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển khá cả về diện tích lẫn năng suất và sản lượng. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được tăng lên về số lượng và trọng lượng xuất chuồng.

Đây là những minh chứng sống động cho chủ trương nông nghiệp hóa của Đảng trên quê hương Thọ Sơn, góp phần quan trọng vào quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân và chi viện cho miền Nam ruột thịt.

2. Trên mặt trận văn hóa - xã hội

Trong suốt thời kỳ đất nước có chiến tranh, mọi hoạt động văn hóa, xã hội đều hướng vào mục tiêu xây dựng ý thức trách nhiệm công dân, tạo nên phong trào thi đua rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân “Tất cả vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vì miền Nam ruột thịt”. Những phong trào thi đua lớn luôn tạo nên không khí sôi động khắp làng quê Thọ Sơn. Công tác thông tin, tuyên truyền được tăng cường. Tinh thần tập thể được đề cao với khẩu hiệu “Mỗi người vì mọi người”, đề cao những tấm gương cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp chung. Có thể nói đây là giai đoạn lý tưởng sống đẹp, sống vì tập thể, vì Tổ quốc, vì nhân dân được phát huy cao độ, tạo nên động lực phấn đấu, thi đua trong mọi tổ chức đoàn thể, mọi người dân ở Thọ Sơn.

Mặc dù hoàn cảnh khó khăn, nhưng giáo dục Thọ Sơn vẫn phát triển. Thời kỳ không quân Mỹ đánh phá trên địa bàn huyện, bom nổ, máy bay gầm rú suốt ngày đêm, nhưng thầy và trò các trường Thọ Sơn vẫn vững vàng trên mặt trận giáo dục. Từ năm học 1972 - 1973, Trường Cấp 2 Thọ Sơn được thành lập, có đủ 3 lớp học (lớp 5, lớp 6, lớp 7) với 93 học sinh, hiệu trưởng là thầy Ninh Văn Lịch (Thọ Lộc). Phong trào thi đua hai tốt vẫn được đẩy mạnh.

Phong trào y tế có bước phát triển mới. Trạm xá xã từng bước được cải tạo cơ sở vật chất, đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Trong những năm không quân Mỹ đánh phá miền Bắc, đội ngũ cán bộ y tế luôn sẵn sàng trực chiến, sẵn sàng đối phó nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực mà dù trong hoàn cảnh chiến tranh còn rất nhiều thiếu thốn, địa phương đã hạn chế tối đa các dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.

Thực hiện Nghị quyết của Huyện uỷ Triệu Sơn, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc vận động lớn, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Mỗi người làm việc bằng hai, vì Miền Nam ruột thịt”([33])Đoàn thanh niên đẩy mạnh phong trào 3 sẵn sàng, Hội Phụ nữ phát động phong trào 3 đảm đang, Đội Thiếu niên phát động phong trào đi tìm địa chỉ đỏ, sạch làng tốt ruộng, Hội phụ lão phát động phong trào ông trồng cháu chăm...

Trong lúc cán bộ và nhân dân Thọ Sơn, cùng với cả nước đang thu được những thành tích to lớn trên mặt trận sản xuất, chiến đấu thì ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chủ tịch, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của dân tộc và Đảng ta, danh nhân văn hóa thế giới, chiến sỹ giải phóng dân tộc qua đời. Biến đau thương thành hành động, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho chiến trường, quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, thỏa lòng mong ước của Người.

2.                       Trên mặt trận quốc phòng - an ninh

Giai đoạn 1965 - 1975 là thời kỳ công tác quốc phòng - an ninh trên địa bàn xã Thọ Sơn diễn ra đầy sôi động, lớp lớp thanh niên nối nhau ra mặt trận, với quyết tâm: “Ra đi giữ trọn lời thề/ Chưa tan giặc Mỹ chưa về quê hương”. Đồng thời cũng là thời kỳ hậu phương miền Bắc gánh chịu 2 lần đánh phá của không lực Hoa Kỳ[34]. Huyện Triệu Sơn là địa phương có nhiều tuyến giao thông trọng yếu vận chuyển lương thực, vũ khí cho chiến trường miền Nam, là nơi tập kết, cất giấu vũ khí, bộ đội đóng quân nên trở thành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, Đảng bộ Thọ Sơn nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Cấp ủy đã triển khai mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, nhân dân, không được chủ quan, lơ là mất cảnh giác. Theo chỉ đạo của xã, mỗi gia đình đào ít nhất được 2 hố cá nhân, hoặc 1 hầm trú ẩn Quảng Bình, các nơi công cộng như: công sở, trường học, trạm xá, cửa hàng mua bán… đều có hệ thống hầm, hào, ven đường có hào giao thông. Nhờ chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ, chính quyền, toàn xã đào được 1.400m hào giao thông, 812 hầm, hố cá nhân. Công tác phòng gian, bảo mật được tăng cường, toàn dân thực hiện “3 không”, (không biết, không nói, không chỉ) đề phòng bọn việt gian, phản động xâm nhập vào địa phương. Mỗi làng làm một chòi phòng không, trên có người trực suốt ngày đêm, khi có máy bay đến đánh kẻng báo động để nhân dân xuống hầm trú ẩn, khimáy bay đi đánh kẻng báo yên để tiếp tục lao động, học tập.

Trong năm 1972, không quân Mỹ đã 2 lần ném bom xuống làng Đồng Sang và trại bò làm chết nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa. Biến đau thương thành hành động, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn đẩy mạnh sản xuất, tham gia phục vụ bộ đội giáng trả đích đáng lũ giặc trời. Theo chỉ đạo của huyện, toàn xã thành lập một trung đội trực chiến, có súng trường, thường xuyên luyện tập kỹ thuật bắn máy bay tầm thấp, cùng bộ đội đào đắp ụ pháo, sẵn sàng nhận nhiệm vụ theo điều động của huyện và chiến đấu khi có chiến sự xảy ra. Ngoài ra còn có đội cứu thương, đội cứu hỏa sẵn sàng ứng cứu khi có chiến sự trên địa bàn xã.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, năm 1972, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XI.Đồng chí Bùi Ngọc Chuyên được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

Nghị quyết Đại hội đã nêu bật những thành tựu mà cán bộ và nhân dân xã nhà đạt được của nhiệm kỳ trước, chỉ ra những hạn chế, tồn tại cần khắc phục và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ với các nhiệm vụ chủ yếu sau: Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến và sẵn sàng cùng quân dân miền Bắc giáng trả cuộc leo tháng đánh phá miền Bắc của không lực Hoa Kỳ.

Với khi thế “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, những hạt thóc, những người con ưu tú từ quê hương Thọ Sơn theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc hối hả ra mặt trận. Người ở tiền tuyến thi đua giết giặc lập công, người ở hậu phương “chắc tay súng, vững tay cày” vừa sản xuất giỏi, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa làm tốt công tác hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Trong những năm tháng đánh Mỹ, nhân dân Thọ Sơn đã đón tiếp nhân dân về sơ tán, các đơn vị bộ đội về tập kết, huấn luyện. Đồng thời là nơi tập kết xăng dầu, vũ khí, khí tài của quân đội. Nhân dân trong xã đã nhường nhà cửa, giường chiếu, tạo điều kiện tốt nhất dành cho bộ đội với tình cảm “quân dân cá nước”. Nhiều năm liền Thọ Sơn hoàn thành vượt mức kế hoạch giao quân, đạt danh hiệu Đơn vị quyết thắng.

Hằng năm, Đảng bộ luôn tổ chức cho đảng viên học tập các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, quan tâm xây dựng chi bộ 4 tốt, gắn trách nhiệm đảng viên với việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, Đảng bộ tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 192 của Bộ Chính trị về làm trong sạch đội ngũ Đảng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Các chi bộ tiếp tục rà soát, kiểm điểm đảng viên, tổ chức cho quần chúng góp ý đảng viên, đồng thời thực hiện tốt 4 chế độ, gồm: chế độ sinh hoạt; chế độ phân công đảng viên; chế độ học tập; chế độ tự phê bình và phê bình, nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, nâng cao sức chiến đấu của đảng viên và tổ chức Đảng. 

Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong chiến công vang dội đó, Đảng bộ và nhân dân trong xã có quyền tự hào về những đóng góp của mình. Thọ Sơn đã tiễn đưa 352 thanh niên vào bộ đội, 76 đi thanh niên xung phong, 35 thanh niên đi dân công hỏa tuyến. Trong đó gần 100  người đã hiến trọn tuổi xuân của mình cho Tổ quốc. Quê hương Thọ Sơn tự hào có anh Bùi Văn Bịnh lập được chiến công lớn, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Người ở hậu phương thi đua làm việc bằng hai, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, cung cấp sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam. Với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn luôn vượt mọi khó khăn, phấn đấu, nỗ lực hết mình, xứng đáng là những người ở hậu phương lớn của tiền tuyến lớn.

Ghi nhận những đóng góp trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, góp phần cùng cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, nhiều Bằng khen và nhiều danh hiệu cao quý khác cho cán bộ và nhân dân trong xã. Đây là tài sản tinh thần vô giá sẽ song hành cùng Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn trên chặng đường cách mạng mới.

 CHƯƠNG IV

 

KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1986)

I.THỰC HIỆN KẾ HAOCHJ NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨU HAI (1976 – 1980) 

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong không khí rạo rực đón mừng chiến thắng của cả nước, Đảng bộ và nhân dân trong xã tổ chức lễ mít tinh chào mừng thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Toàn thể nhân dân tỏ rõ niềm tin tưởng, phấn khởi vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm nhanh chóng khắc phục những hậu quả của cuộc chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, giữa năm 1975, Đảng bộ tiến hành Đại hội lần thứ XII. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Sỹ Chân được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã được bầu làm Phó Bí thư.

 Đại hội biểu dương tinh thần, ý chí quyết thắng của cán bộ và nhân dân xã nhà góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nhân dân hưởng ứng chiến dịch “Na Sơn thần tốc” do Huyện ủy Triệu Sơn phát động, nhằm hoàn chỉnh công tác thủy nông, đảm bảo thu chiêm làm mùa và hoàn thành nghĩa vụ lương thực.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ và nhân dân trong xã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, đẩy mạnh cuộc thi đua “55 ngày tiến vào thời kỳ mới” do Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII phát động. Động lực của cuộc vận động này là thi đua với các điển hình tiên tiến để hoàn chỉnh thủy nông, thanh toán hết diện tích hoang hóa, làm vụ chiêm xuân và bèo hoa dâu... Mục tiêu hành động được Đảng bộ xác định là: tiến công vào mặt trận thủy lợi, nạo vét kênh mương, củng cố hồ đập, quy hoạch lại bờ vùng, bờ thửa, trên cơ sở đó từng bước hoàn chỉnh giao thông nội đồng; tiếp tục đẩy mạnh khai hoang phục hóa, huy động lực lượng thanh niên cải tạo mặt bằng những diện tích khó khăn còn để lại để đưa vào sản xuất. Củng cố hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, từng bước khẳng định vai trò của kinh tế tập thể trên cơ sở đó tiến tới kinh tế toàn dân. Để hưởng ứng phong trào trên, Huyện ủy Triệu Sơn đã phát động chiến dịch “Na Sơn đại nghĩa”, với nhiệm vụ trước mắt là tập trung mọi lực lượng sản xuất vụ chiêm xuân năm 1976.

Cùng với các nhiệm vụ trên, Đảng bộ Thọ Sơn lãnh đạo cán bộ, nhân dân trong xã thực hiện Nghị quyết số 02 - NQ/TU ngày 24 - 3 - 1976 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về "Tình hình nhiệm vụ và biện pháp thi hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24". Trong đó nêu rõ những nhiệm vụ chủ yếu là: đẩy mạnh cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp từ cơ sở, hướng các ngành kinh tế phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh thủy lợi, hoàn chỉnh thủy nông... Đồng thời Tỉnh ủy phát động phong trào thi đua lập thành tích cao nhất chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Với khí thế “Na Sơn đại nghĩa”, phát huy tinh thần “trai gái Triệu Thị Trinh”, “cánh đồng Bà Triệu” thời chống Mỹ, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thời kỳ cách mạng mới với khí thế đầy hào hứng. Phong trào thủy lợi tiếp tục được đẩy mạnh với hàng ngàn mét khối đất được đào đắp trên các công trình. Đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Phát động phong trào làm phân chuồng, phân xanh, nuôi bèo hoa dâu. Khí thế thi đua lao động, sản xuất diễn ra sôi nổi rộng khắp trong các thôn, xóm.

Đầu năm 1976, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị về thăm và làm việc với cán bộ, đân dân huyện Triệu Sơn. Đồng chí căn dặn: là huyện dẫn đầu về công tác thủy nông đồng thời phải dẫn đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong lao động sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý điều hành…

Thực hiện lời dạy của đồng chí Trường Chinh, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Sơn ra quân với tinh thần “hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, đẩy mạnh phong trào “Lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục tổ chức khai hoang, phục hóa, tham gia các công trường thủy lợi của huyện, của tỉnh. Cùng với việc ra quân làm thủy lợi nội đồng, xã triển khai phong trào làm đường giao thông nông thôn thu hút hàng ngàn công lao động tham gia.

Giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa có bước phát triển mới. Giai đoạn này, dù còn khó khăn nhưng Nhà nước vẫn ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục. Học sinh đi học không phải nạp tiền học phí, sách giáo khoa mượn trong tủ sách dùng chung của trường. Từ năm học 1976 - 1977, số học sinh vào các lớp nhà trẻ, mẫu giáo, các cấp học phổ thông đều tăng. Giai đoạn này, Trường Cấp I và trường cấp 2 của xã được sáp nhập thành Trường cấp 1, 2 Thọ Sơn, do thầy Phạm Văn Sáng (Hợp Thắng làm Hiệu trưởng. Từ năm học 1979 – 1980, trường được chuyển về vị trí ngày nay trường đóng, có 10 phòng học lợp ngói, văn phòng, khu nhà ở tập thể. Trường có 22 lớp với 837 học sinh. Trên địa bàn các làng vẫn duy trì các lớp vỡ lòng, nhóm mẫu giáo. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được đẩy lên một bước, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn xã. Hoạt động văn hóa thông tin đã tập trung cổ vũ phong trào lao động sản xuất, xây dựng quê hương, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Tổ chức các buổi thi đấu thể dục thể thao, các đêm văn nghệ quần chúng chào mừng ngày bầu cử Quốc hội thống nhất, mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976, tại Thủ đô Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội ở nước ta, vạch ra đường lối kinh tế và đề ra phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, quyết định đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thắng lợi của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã mang lại niềm tin tưởng sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã đối với sự lãnh đạo của Đảng. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, đầu năm 1977, Đảng ủy tổ chức đợt nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Qua đợt sinh hoạt chính trị, trình độ nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về đường lối của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ trong cán bộ và nhân dân được nâng lên một bước, củng cố được sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng.

Từ nhận thức tinh thần của Đại hội, Đảng bộ đã đề ra phương hướng hành động cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Trong đó trọng tâm là thực hiện Chỉ thị 208 của Ban Chấp hành Trung ưởng Đảng từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Năm 1977, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XIII. Tại Đại hội này, Đảng bộ tập trung bàn biện pháp lãnh đạo nhân dân thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Huyện ủy về tổ chức lại sản xuất, cải tiến công tác quản lý nông nghiệp. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Nguyễn Sỹ Chân được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Trần Thọ Đồng Chủ tịch Ủy ban hành chính xã làm phó Bí thư

Nghị quyết Đại hội nêu rõ: coi sản xuất lương thực là nhiệm vụ hàng đầu, trên cơ sở đó đẩy mạnh chăn nuôi, lâm nghiệp và ngành nghề, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp phát triển cân đối và toàn diện.

Thực hiện chỉ đạo của huyện Triệu Sơn, năm 1978, Thọ Sơn tiến hành sáp nhập các hợp tác xã nông nghiệp liên thôn hợp tác xã nông nghiệp toàn xã. Tại Đại hội xã viên lần thứ nhất, đồng chí được bầu làm Chủ nhiệm hợp tác xã. Đây là bước đi tất yếu trong quá trình đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo chủ trương của Đảng.

Đầu năm 1978, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ra Nghị quyết về phát động phong trào Định Công hóa, phấn đấu trong một thời gian ngắn tất cả các hợp tác xã đều có trình độ như Định Công. Thọ Sơn đã lần lượt cử 12 cán bộ Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã, hợp tác xã nông nghiệp và các đội sản xuất đi Định Công học tập kinh nghiệm. Trên cơ sở hướng dẫn của huyện, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua mới: “Học tập Định Công về toàn diện”[35].

Nắm vững đường lối của Đảng, Thọ Sơn tập trung củng cố các tổ chuyên trong hợp tác xã. Ngoài các đội cơ bản được chia theo đơn vị đội sản xuất, hợp tác xã còn có các đội chuyên như sau: đội giống có 12 lao động, đội chăn nuôi có 18 lao động, đội kỹ thuật 20 lao động, đội thủy lợi 202 có 45 lao động, đội ngành nghề có 34 lao động...

 Cơ sở vật chất như: xây dựng lán, kho, nhà ủ phân ở các đội, mua sắm thêm công cụ sản xuất như: máy xay sát, cày, bừa, xe kiến an, máy làm đất Bông Sen để phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, đây là giai đoạn sản xuất nông nghiệp ở gặp nhiều khó khăn, trên địa bàn cả tỉnh nạn hạn hán kéo dài gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Thọ Sơn là địa phương còn nhiều diện tích không chủ động được tưới tiêu nên tình hình còn khó khăn hơn. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, cấp ủy, chính quyền, ban chủ nhiệm hợp tác xã Thọ Sơn đã tiến hành nhiều biện pháp khắc phục khó khăn để đưa sản xuất phát triển, mạnh dạn đưa các giống lúa mới như: X1, X6, V10… có năng suất cao vào sản xuất.

Nhờ áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp mà sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn có những chuyển biến rõ rệt. Đến năm 1979, năng suất lúa đạt 4,8 tấn/ha/năm, tổng sản lượng lương thực đạt 700 tấn. Vì vậy, mặc dù thời tiết gặp nhiều khó khăn, nhưng bình quân mỗi năm, Thọ Sơn vẫn đóng góp đầy đủ nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước.

Tháng 5 năm 1980,dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XIV. Đại hội thảo luận và thông qua báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa trước, trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của xã, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện cho những năm 1980 - 1983.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 đồng chí, đồng chí Bùi Văn An được bầu làm Bí thư, đồng chí Hà Công Tý Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư.

Tình hình kinh tế xã hội thời gian này vô cùng khó khăn, sau hạn hán năm 1977, tiếp đến là nạn lụt năm 1978 và năm 1980 hàng trăm mẫu lúa ở các khu đồng trũng bị mất trắng, toàn xã bị mất trắng tới 50% diện tích, số còn lại thu hoạch không đáng kể, thóc thu được chỉ là thóc kẹ, thóc lép, dẫn đến sản lượng lương thực không đạt chỉ tiêu đề ra, các loại cây màu như: lạc, đậu, vừng... đều giảm sút, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, đời sống nhân dân rất khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng ủy đã đề ra chủ trương mở rộng diện tích vụ đông, phát triển đồi rừng và chăn nuôi để bổ sung lượng lương thực thiếu hụt.

Trại chăn nuôi được xây dựng theo mô hình mới, theo từng dãy chuồng có máng lợn ăn. Trong trại được phân chia thành khu nuôi lợn thịt, khu nuôi lợn sữathường xuyên có 12 - 15 lao động,1 cán bộ trung cấp thú y làm việc. Hằng năm, tổ chức tiêm phòng cho đàn gia cầm của tập thể và nhân dân. Ngoài việc giao trâu bò cho các hộ xã viên nuôi, hợp tác xã còn xây dựng trại chăn nôi bò ở khu đồi làng Đồng Cốc với số lượng hàng trăm con. Chính vì vậy, đàn gia súc tăng 12%, gia cầm tăng 17%, cá nuôi ước đạt 13 tấn.

Hoà chung khí thế cách mạng ở địa phương, văn hoá xã hội có bước phát triển mạnh. Một phong trào thi đua yêu nước diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân. Cùng với cả nước, nhân dân Thọ Sơn tràn đầy niềm tin tưởng và tự hào là dân của một dân tộc anh hùng đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Các phong trào thi đua liên tiếp diễn ra và thu được kết quả khả quan. Đoàn Thanh niên đẩy mạnh phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể”, Đội Thiếu niên có phong trào “Trần quốc Toản”, Hội Phụ nữ có phong trào “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”… Tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân được đề cao và nâng lên rõ rệt. Đảng bộ tập trung lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV đã đề ra với từng bước đi cụ thể phù hợp với điều kiện địa phương, trước hết là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới. Có thể nói xây dựng nền văn hoá mới, con người mới được Đảng bộ coi trọng và các tổ chức kinh tế, xã hội vận dụng linh hoạt trong nhiều các hoạt động ở địa phương. Xã viên được giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, coi “hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, lẽ sống “mình vì mọi người” thường xuyên nhắc nhở được hội viên, đoàn viên... coi đó là mục tiêu phấn đấu, trở thành tiêu chí thi đua của các đoàn thể, những gương người tốt việc tốt được biểu dương kịp thời, tạo không khí thi đua sôi nổi ở làng quê.

Các hủ tục lạc hậu như: chè chén tốn kém trong cưới xin, ma chay được vận động bãi bỏ. Thanh niên thực hiện tổ chức cưới văn minh tiết kiệm, đám cưới do Đoàn Thanh niên đứng ra tổ chức tại hội trường, không ăn uống linh đình tốn kém, cô dâu, chú rễ “vui duyên mới không quên nhiệm vụ mới’. Công tác thông tin, tuyên truyền được coi trọng, địa phương xây dựng thư viện phục vụ đông đảo nhân dân trong xã, các loại báo, tạp chí cho các chi bộ, tổ chức đoàn thể được chuyển về kịp thời.

So với giai đoạn trước, giai đoạn này chất lượng dạy và học được nâng lên, số học sinh lên lớp và tốt nghiệp năm sau đều cao hơn năm trước. Năm 1977, Thọ Sơn thành lập trường vừa học vừa làm của xã nhằm hoàn thành chương trình cấp 2 cho thanh niên trong xã. Học viên mỗi tuần học 3 buổi, các buổi khác đi làm như một đội chuyên. Giáo viên là những người học xong chương trình cấp 3, vừa dạy học, vừa đi làm cùng học viên, được hợp tác xã tính công điểm để nhận thóc. Mô hình trường vừa học, vừa làm đã góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho thanh niên trong xã.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có tiến bộ, nhất là công tác vệ sinh phòng bệnh. Trạm xá xã được xây dựng mới, đội ngũ thầy thuốc được đi tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ. Cán bộ y tế đến từng gia đình vận động nhân dân thực hiện phong trào “3 dứt điểm”, xây dựng các công trình: giếng nước, nhà tắm và nhà tiêu 2 ngăn, sinh đẻ có kế hoạch...

Nhiệm vụ quốc phòng an ninh được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo. Đảng ủy đã chỉ đạo củng cố đội dân quân, xây dựng trung đội mạnh, đăng ký quân dự bị. Từ giữa năm 1977, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam xảy ra, tiếp đó “ngày ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc vô cớ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Quân đội và nhân dân Việt Nam, mà trực tiếp là quân dân 6 tỉnh phía Bắc buộc phải chiến đấu tự vệ và chiến đấu ngoan cường để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, độc lập của Tổ quốc”[36]. Theo lời lệnh “tổng động viên” của Chủ tịch nước, lớp lớp thanh niên trong xã xung phong lên đường ra mặt trận, có những người mới rời quân ngũ chưa được bao lâu đã sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ. Đảng ủy, chính quyền tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Nhân dân được phổ biến phương án sơ tán, chuẩn bị hậu cần để đối phó với tình huống xấu quân Trung Quốc đánh vào địa phương. Chủ trương xây dựng huyện thành pháo đài chính trị, làng xã chiến đấu của Tư lệnh Quân khu IV được địa phương thực hiện nghiêm túc, sẵn sàng giáng trả nếu kẻ địch liều lĩnh mở rộng chiến tranh đến địa phương.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, nhân dân trong xã tiễn đưa hàng trăm người con lên đường nhập ngũ, trong đó có hàng trăm người đã anh dũng hy sinh tuổi xuân, hay một phần xương máu của mình để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, thời gian này, mỗi đội sản xuất có 1 chi bộ. Đảng ủy triển khai thực hiện Chỉ thị 72, Nghị quyết 195 của Ban Chấp hành Trung ương về phát thẻ đảng viên. Qua 3 lần phát thẻ đảng có 98,7% đảng viên trong Đảng bộ đã được nhận thẻ, thông qua việc phát thẻ Đảng, uy tín của cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Hàng năm, Đảng bộ triển khai phân loại tổ chức Đảng, đảng viên nghiêm túc, số chi bộ đạt vững mạnh mỗi năm một tăng, tỉ lệ đảng viên loại I được đạt trên 70%.

Sau 5 năm nỗ lực phấn đấu, với bao khó khăn do thời tiết gây ra, sản xuất còn lạc hậu, xuất phát điểm từ một nền kinh tế thấp... Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Sơn đã từng bước tháo gỡ khó khăn, thu được những kết quả hết sức phấn khởi. Đời sống nhân dân tuy chưa cao nhưng dần đi vào ổn định, các tổ chức quần chúng đã được kiện toàn, thu hút ngày càng đông đoàn viên, hội viên tham gia. Những kết quả bước đầu đạt được có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Đảng bộ trong thời gian này, tạo niềm tin cho nhân dân trong xã trên chặng đường đi tới.

II. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨU BA (1981 – 1985).

Bước vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội giai đoạn 1981 - 1985, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn được tiếp thêm sức mạnh mới. Những kết quả đạt được trong những năm đầu khi nước nhà thống nhất tuy khiêm tốn nhưng đã chứng tỏ tinh thần sáng tạo, vượt lên gian khó của Đảng bộ và nhân dân trong xã.

Tuy nhiên, giai đoạn này sản xuất nông nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trên mặt trận phân phối lưu thông có nhiều rối ren. Tình trạng thiếu thốn về vật tư, tiền vốn, nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm diễn ra trầm trọng, cán bộ, công nhân viên chức, những người hưởng lương phải nghỉ tự túc tự lo lương thực, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.

Trước tình hình trên, tháng 8 năm 1979, tại Hội nghị Trung ương sáu, bàn về công nghiệp và hàng tiêu dùng địa phương, những vấn đề cấp bách về kinh tế, đời sống, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra biện pháp cấp bách về kinh tế và đời sống. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế “làm cho sản xuất bung ra” theo phương hướng, kế hoạch của Nhà nước. “Phải xóa bỏ ngay những chính sách kinh tế đã lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế sản xuất và đời sống. Các chính sách mới phải kết hợp chặt chẽ lợi ích Nhà nước với lợi ích tập thể và lợi ích người lao động, nhằm khuyến khích mọi người hăng hái sản xuất”[37]. Hội nghị này mở đầu cho quá trình đổi mới của Đảng ta tuy chưa cơ bản và toàn diện.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu, ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (thường gọi tắt là Chỉ thị 100 hay khoán 100). Chỉ thị 100 thể hiện sự đổi mới tư duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã.

Năm 1982, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XV. Sau khi thảo luận Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa trước trình trước Đại hội, Đại hội đã tập trung bàn biện pháp thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đảng bộ xác định, khi thực hiện khoán 100 phải đạt được mục đích: đảm bảo phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn mọi người hăng hái lao động, kích thích nâng cao năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai và các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có; áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất; củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn; không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên, tích lũy của hợp tác xã, làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước.

Phương hướng chủ yếu để cải tiến công tác khoán trong hợp tác xã nông nghiệp là: khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất, thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng.

Đại hội thông qua Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ trong những năm 1982 - 1985 và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí. Đồng chí Bùi Sỹ An được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Doãn Mơ Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư.

Sau Đại hội Đảng bộ, Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện Chỉ thị 100, đồng thời chỉ đạo hợp tác xã tập huấn cho ban chỉ huy các đội sản xuất tổ chức thực hiện phương án khoán cho các hộ xã viên.

Khoán 100 ra đời đã tạo nên khí thế thi đua sản xuất sôi nổi ở khắp làng quê Thọ Sơn, phát huy được tính tích cực, tự giác của xã viên, lôi cuốn mọi người tăng thêm công sức, chủ động tận dụng đất đai, phân bón, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, sản lượng thu hoạch và nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của xã viên, tăng tích lũy của hợp tác xã và tạo điều kiện cho hợp tác xã thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nông sản đối với Nhà nước. Một phong trào vượt khoán diễn ra mạnh mẽ, làng trên, xóm dưới đâu đâu cũng bàn đến khoán sản phẩm, không còn cảnh đi làm kiểu tối ngày đầy công như trước đây. Đảng ủy phân công các đồng chí trong Ban Chấp hành phụ trách từng đơn vị, các đồng chí trong Ban Chủ nhiệm hợp tác xã được phân công khâu nào phải thường xuyên báo cáo kịp thời với Ban Chủ nhiệm, tìm cách tháo gỡ khó khăn để sản xuất phát triển.

Tính đến thời điểm đó, chưa có hình thức kinh tế nào khi xuất hiện lại được nhiều người hưởng ứng rộng rãi và nhanh chóng biến thành một phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút đông đảo nông dân tham gia như hình thức khoán 100. Với hình thức khoán này, xã viên đảm nhiệm 3 khâu: cấy, chăm sóc, thu hoạch, hợp tác xã đảm nhận 5 khâu: giống, làm đất, phân bón, bảo vệ thực vật và thủy nông, nếu vượt khoán thì xã viên được hưởng. Vì thế, đã phát huy được tính tích cực của người lao động, xã viên và các đội sản xuất hăng hái nhận ruộng khoán. Đồng thời hợp tác xã khuyến khích xã viên khai hoang, cho miễn thuế từ 3 đến 5 năm. Với chủ trương này, xã viên đã tích cực hưởng ứng, khắp các xứ đồng, chỗ nào còn bỏ rậm bà con đều tìm mọi cách khai hoang và đưa vào sản xuất. Ngoài ra, hợp tác xã phát động xã viên nhận ruộng nuôi lợn gia công theo hình thức, hợp tác xã lo giống, cứ 1 kg lợn hơi người nuôi được 5 kg thóc, phát triển thêm đàn trâu bò cày kéo...

Cơ chế khoán mới theo Chỉ thị 100 bước đầu đã khơi dậy tiềm năng và sức lao động, sáng tạo của hộ xã viên tạo động lực thúc đẩy sản xuất và các hoạt động của xã phát triển.

Kết quả, các vụ sản xuất trong 2 năm 1981- 1982 nhân dân đã khai hoang thêm hàng chục mẫu ruộng ở các xứ đồng đưa vào sản xuất. Năng suất lúa, màu đều tăng 150% so với năm 1980, sản lượng lương thực quy thóc tăng 57,8%. Hầu hết các hộ nhận khoán đều vượt sản, số hộ vượt trên 3 tạ mỗi vụ tương đối nhiều, điển hình là các thôn: Làng Pheo, làng Bứa, Bái Đề, Ngô Công… Sản xuất lương thực phát triển tạo điều kiện để đẩy mạnh chăn nuôi. Số đầu lợn trong gia đình xã viên tăng lên, trại lợn của hợp tác xã chỉ giữ lại lợn nái sinh sản và một số lợn thịt; chăn nuôi trâu bò tăng đáng kể so với những năm trước đây; nuôi cá phát triển mạnh, bà con tận dụng những ao, hồ tăng diện tích nuôi cá làm thực phẩm. Nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước hằng năm đều đạt trên 200 tấn.

Việc thực hiện cơ chế khoán theo Chỉ thị 100 đã phần nào giải tỏa được những khó khăn về nạn thiếu lương thực, tạo không khí phấn khởi trong nông dân, mở ra triển vọng mới cho việc phát triển kinh tế ở địa phương, dù chưa vững chắc.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, từ vụ Đông Xuân năm 1982 - 1983, Đảng ủy tăng cường chỉ đạo hợp tác xã chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chọn những giống lúa có năng suất cao, phù hợp với từng đồng đất, mùa vụ đưa vào sản xuất; khuyến khích các hộ phát triển kinh tế vườn đồi theo mô hình kinh tế VACR (Vườn - Ao - Chuồng - Rừng); động viên các hộ xã viên tăng cường phát triển kinh tế hộ gia đình để tăng thu nhập, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi.

Đánh giá tình hình kinh tế, xã hội thời gian qua, Đảng bộ nhận thấy: nhờ thực hiện tốt công tác khoán mới, sản xuất nông nghiệp trong xã có bước tiến mạnh, vấn đề lương thực trong dân bước đầu được giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trên, công tác khoán trên địa bàn xã đã xuất hiện những bất cập mới, như: một số cán bộ chưa sâu sát trong việc chỉ đạo sản xuất, nhất là chỉ đạo cơ cấu giống, xuất hiện tình trạng khoán trắng, một số hộ dân chưa có kế hoạch đầu tư thâm canh nên năng suất thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn.

Tuy vậy, giai đoạn này sản xuất gặp nhiều khó khăn do hạn hán, bão lụt liên tiếp xảy ra. Năm 1983, vụ chiêm xuân hạn nặng, vụ mùa lại bị bão lụt làm nhập úng trên 38% diện tích gieo cấy. Vụ chiêm xuân năm 1984 rét đậm kéo dài làm mạ và lúa mới cây (chủ yếu là giống mới) chết hàng loạt, địa phương đã phải dặm, cấy lại trên 30% diện tích gieo cấy. Qua mấy năm thực hiện hiệu quả, Chỉ thị 100 đã bộc lộ những bất cập, nhiều hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và phân phối, như: tập thể khoán trắng cho xã viên, buông lỏng công tác quản lý, chỉ đạo, rong công, phóng điểm, mức sản tăng lên quá cao khiến thu nhập của xã viên bị giảm sút, nợ đọng sản phẩm, nhiều người không còn thiết tha với ruộng khoán... Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các địa phương trong tỉnh, trong đó có xã Thọ Sơn.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, năm 1984, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIđược tổ chức. Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những khó khăn, thuận lợi, những việc đã làm được và những khiếm khuyết của Đảng bộ, chính quyền xã trong nhiệm kỳ vừa qua. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên, Đại hội xác định ưu tiên phát triển kinh tế nông nghiệp, từng bước hoàn thiện công tác khoán mới.

Đại hội đã bầu ra ban Chấp hành Đảng bộ, đồng chí Bùi Văn An được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu làm Phó Bí thư.

Sau Đại hội, Thọ Sơn tập trung thực hiện Chỉ thị số 02-CT/TU của Ban Chấp hành Tỉnh ủy Thanh Hóa và hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn về sửa chữa lệch lạc trong thực hiện Chỉ thị 100.

Đảng ủy đã tổ chức hội nghị sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 100, qua đó chỉ đạo hợp tác xã sửa chữa những sai lệch trong quá trình thực hiện Chỉ thị 100, như: khắc phục tình trạng giao ruộng manh mún; xác định lại sản lượng, trường hợp thiên tai gây thiệt hại, cấp ủy chi bộ, đội sản xuất báo cáo để hợp tác xã xem xét miễn giảm hợp lý; tổ chức, điều chỉnh một số khâu công việc khoán; chấn chỉnh việc xã viên nạp đầy đủ sản cho hợp tác xã...

Do làm thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 02 của Tỉnh ủy, thời tiết lại thuận lợi, nên 2 năm 1984, 1985 sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn được mùa. Năng suất, sản lượng lúa, màu đều tăng hơn năm trước, bình quân đạt trên 5,6ha/năm. Mức lương thực bình quân được tăng lên, nhiều hộ nông dân có thóc dự trữ cho vụ sau, nạn đói giáp hạt giảm dần. Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt gần 900 tấn, nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước đạt 220 tấn, 27 tấn lợn hơi. Hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng đều chủ động trong kinh doanh, phát huy vai trò phục vụ đời sống và sản xuất của nhân dân.

Lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Thực hiện Quyết định số 15-CP ngày 27 - 3 - 1981 về hệ thống giáo dục phổ thông mới, Trường Cấp 1, 2 Thọ Sơn được đổi tên thành Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn, do thầy Nguyễn Văn Giai làm hiệu trưởng. Trường tiến hành cải cách giáo dục lần thứ 3, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 12 năm, xóa lớp vỡ lòng ở các thôn bản. Dù còn khó khăn, địa phương vẫn quan tâm đầu tư cơ sở vật chất trường học, giảm dần tình trạng học 3 ca[38]. Chất lượng học được nâng lên rõ rệt qua từng năm học: năm học 1984 - 1985, tỷ lệ học sinh vượt cấp khối cấp I đạt 95%, tỷ lệ tốt nghiệp khối cấp II đạt 90%. Nhiều năm, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn đạt danh hiệu trường tiến tiến cấp huyện.

Về y tế, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vệ sinh phòng dịch được quan tâm. Với tinh thần phục vụ nhân dân, cán bộ trạm xá xã đã luôn tận tụy, trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Hằng năm trạm đều tổ chức khám, chữa bệnh cho nhân dân, mở các đợt tuyên truyền vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, ăn chín uống sôi, ngủ màn. Đặc biệt công tác kế hoạch hóa gia đình, với mục tiêu giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Hằng năm xã đều tổ chức ngày hội hạnh phúc, tăng cường vận động chị em dùng các biện pháp tránh thai. Nhờ làm tốt công tác này, Triệu Sơn được tặng lẳng hoa Bác Tôn, thành tích trên có sự đóng góp của cán bộ và nhân dân xã Thọ Sơn.

Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, được Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã thường xuyên quan tâm xây dựng. Đảng ủy có Nghị quyết chuyên đề về công tác này. Giai đoạn này, dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế chúng vẫn chiếm đóng nhiều địa điểm trọng yếu về quân sự của nước ta. Nhiều trận đánh lớn chống bọn xâm lược Trung Quốc vẫn nổ ra. Trong thư gửi chiến sỹ, đồng bào cả nước Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã kêu gọi chiến sỹ, đồng bào cần nêu cao cảnh giác, vì kẻ địch còn ngoan cố và tiếp tục gây thêm nhiều tội ác mới[39]. Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ, luôn quan tâm giáo dục, động viên thanh niên nhận thức sâu sắc trách nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Năm 1984, cán bộ và nhân dân trong xã tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Hướng về biên giới”, nhân dân trong xã đóng góp ủng hộ các chiến sỹ nơi biên giới, hải đảo, bố trí việc làm cho những người hoàn thành nhiệm vụ trở về. Đồng thời Đảng bộ đã chỉ đạo hoàn thành các đợt tuyển quân hàng năm đảm bảo chất lượng và số lượng.

Đội ngũ công an xã, thôn được củng cố. Toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác quyết giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Đảng bộ luôn coi trọng công tác cán bộ, đảm bảo đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới. Thời gian này, Đảng bộ tiếp tục tổ chức phát thẻ Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu sắc trong toàn Đảng bộ, là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh.

Đảng ủy coi trọng công tác đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết, công tác bồi dưỡng cán bộ và phát triển Đảng. Từ đó có hướng chuẩn bị nhân sự cho những nhiệm kỳ tiếp theo, kịp thời giáo dục, kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, tạo lòng tin trong quần chúng nhân dân.

Mười năm (1975 - 1985) Đảng bộ Thọ Sơn lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn: hậu quả chiến tranh để lại vô cùng nặng nề, thời tiết diễn biến bất thường, bão lụt liên tiếp xảy ra, chính sách bao vây cấm vận của kẻ địch gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, bọn phản động Pôn Pốt, bọn bành trướng Bắc Kinh liên tiếp gây ra các cuộc chiến tranh biên giới... Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Sơn đã đoàn kết, vững tin vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Đặc biệt, từ khi có Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn có sự khởi sắc. Văn hóa, xã hội có nhiều đổi mới, việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội thu được kết quả bước đầu. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, Thọ Sơn đã cùng với quân và dân cả nước đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới do bọn phản động quốc tế phát động, giữ vững độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ. Qua thực tế lãnh đạo và tổ chức thực hiện, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong xã ngày càng vững mạnh, đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo quần chúng thực hiện các phong trào cách mạng ở địa phương. Đó là hành trang qúy để cán bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục sự nghiệp cách mạng trên chặng đường mới. 

Chư­ơng V

   TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1986 – 2019)

            I.MƯỜI NĂM ĐẦU TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNG ĐAO ( 1986 – 1995)

            1. Thực hiện công cuộc đổi mới giai đoạn 1986 - 1990)

Trong thời kỳ 1976 - 1985, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thu được một số thành tựu đáng kể. Chúng ta đã thiết lập được hệ thống chuyên chính vô sản trên phạm vi cả nước. Từ đó, tạo ra sức mạnh chung, giành được thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, thời kỳ này có không ít khó khăn và những sai lầm, khuyết điểm. “Những chủ trương nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh công nghiệp hóa khi chưa đủ điều kiện cần thiết; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế… đã gây thêm khó khăn cho đời sống kinh tế - xã hội nước ta”[40].

Từ giữa những năm tám mươi của thế kỷ trước, nước ta đứng trước những thử thách nghiêm trọng, những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, sản xuất đình trệ. Những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân không đủ đáp ứng, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nước ta thật sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trong hoàn cảnh đó, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần, dân chủ, đổi mới, Đại hội đã tiến hành đánh giá tình hình phát triển của đất nước trong thời gian qua và đưa ra phương hướng phát triển đất nước trong thời kỳ tới. Đại hội xác định: “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[41].

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thổi một luồng gió mới vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quán triệt và thực hiện nghị quyết Đại hội, Đảng bộ xã Thọ Sơn đã tổ chức học tập trong toàn Đảng bộ và phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Từ đây, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào một giai đoạn cách mạng mới, tiến hành công cuộc đổi mới.

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện đường lối của Đảng trong điều kiện hết sức khó khăn. Về chủ quan, đất nước ta đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát tăng 3 con số, phân phối lưu thông gặp nhiều rối ren… Về chủ quan: sau 10 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, địa phương đã thu được những kết quả khích lệ. Từ khi thực hiện khoán 100, vấn đề lương thực đỡ gay gắt hơn. Tuy nhiên, nhìn chung kinh tế - xã hội vẫn còn vô vàn khó khăn, tỷ lệ hộ thiếu đói còn cao, nay đang có nguy cơ gia tăng, khoán 100 đã bộc lộ những mặt hạn chế làm cho sản xuất nông nghiệp có phần chững lại. Văn hóa- xã hội ngày càng xuất hiện những bất cập mới…

Đứng trước những khó khăn, thử thách, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vượt qua khó khăn để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, quê hương ngày thêm đổi mới. Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền, góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội những năm tiếp theo, Đảng bộ tiến hành kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đề ra những nhiệm vụ cụ thể phát triển kinh tế xã hội phù hợp với thực tế địa phương.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, giữa năm 1986, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIIđược tổ chức. Đại hội thông qua bản góp ý vào văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, nghiêm túc đánh giá, những khó khăn thuận lợi, những việc đã làm được và những khiếm khuyết của Đảng bộ, chính quyền xã trong nhiệm kỳ vừa qua. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên, đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phòng - an ninh của xã nhà trong thời gian tới. Đồng thời xác định: phát triển kinh tế là ưu tiên số một, sản xuất nông nghiệp là đòn bẩy để phát triển kinh tế địa phương. Vì vậy, ngoài cây lúa là chủ lực thì cây màu, vụ đông, chăn nuôi, ngành nghề, trồng rừng cũng được coi trọng.

Đại hội đã bầu ra ban chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Bùi Văn Anh  được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu lại làm Phó Bí thư.

Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những hạn chế, tồn tại của một thời kỳ dài trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, mặt khác phải đổi mới tư duy, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống. Thực hiện nghị quyết của Đại hội hợp tác xã nông nghiệp, ban chủ nhiệm đã tập trung đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích, thâm canh gối vụ, đưa giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.

Sau Đại hội, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đại hội đề ra. Trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đã thu được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, những bất cập từ khoán 100 đã kìm hãm sản xuất, đặc biệt là do mức sản điều chỉnh tăng dần nên nhân dân không còn thiết tha với ruộng đồng, nợ sản ngày càng nhiều. Toàn xã có tới hơn 45% hộ nợ sản. Đây cũng là tình trạng chung của sản xuất nông nghiệp của nước ta giai đoạn này.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn việc thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về việc đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Có thể nói đây là nghị quyết cụ thể hóa đường lối đổi mới nông nhiệp, nông thôn Việt Nam.

Đảng bộ đã có nhiều cuộc họp quán triệt tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Chỉ thị 15 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn về thực hiện đổi mới trong công tác quản lý kinh tế nông nghiệp ở địa phương, chủ trương:

Tiến hành khoán mới phải kết hợp với việc sắp xếp lại sản xuất, chấn chỉnh tổ chức, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp.

Kết hợp sản xuất nông nghiệp với việc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức đoàn thể.

Đảng ủy đã triệu tập hội nghị mở rộng bao gồm: Đảng ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ban Chủ nhiệm hợp tác xã, cán bộ các đội sản xuất. Trên cơ sở, các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, hội nghị quyết định chia đất canh tác thành 3 loại:

- Đất phần trăm phục vụ cho chăn nuôi gia đình.

- Đất cơ bản nhằm đảm bảo lương thực cho nhân dân.

- Đất đấu thầu nhằm phát huy những gia đình có điều kiện thâm canh và là đất dự trữ để cấp tiếp khẩu phát sinh.

Đối tượng xét chia đất có 2 loại: khẩu phần cứng là những hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp; khẩu phần mềm là những người có hộ khẩu trên địa bàn, con cái cán bộ công chức nhà nước trên địa bàn xã, hưu trí nhà nước. Các hộ chính sách, già cả neo đơn được ưu tiên nhận ruộng tốt.

Những hộ có điều kiện sản xuất, vật tư, tiền vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất tốt, không nợ sản, được nhận thêm đất đấu thầu để tạo sản phẩm cho xã hội.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, hợp tác xã nông nghiệp đã tiến hành đấu giá, bán trâu bò, nông cụ cho xã viên, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để các hộ mua thêm trâu bò đảm bảo sức kéo, tăng lượng phân chuồng phục vụ thâm canh tăng năng suất cây trồng.

Cuối năm 1988, việc giao đất theo tinh thần Nghị quyết 10 trên địa bàn xã Thọ Sơn đã được hoàn thành. Nhân dân trong xã phấn khởi, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Từ đây, quyền lợi của người nhận ruộng được đảm bảo hơn, người dân được làm chủ mảnh ruộng của mình, mọi người hăng hái tăng gia sản xuất, các hộ gia đình đầu tư thâm canh nâng cao năng suất.

Tháng 5 năm 1988, Đại  hội Đại biểu Đảng bộ Thọ Sơn lần thứ XVIII được tổ chức tại hội trường xã. Đại hội đã bầu lại đồng chí Bùi Văn An làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Kế Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư. Về phương hướng phát triển kinh tế của địa phương, Đại hội tập trung bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện cả lúa và màu, cả trồng trọt và chăn nuôi, coi trọng phát triển rừng, từng bước đưa vụ đông thành vụ sản xuất chính.

Nhờ có những biện pháp chỉ đạo tích cực, năng suất lúa không ngừng được nâng cao. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, vụ đông được xác định là vụ sản xuất chính. Cơ cấu cây trồng vụ đông cũng thay đổi tích cực, ngoài những cây trồng truyền thống như: khoai lang, ngô, rau màu thì cây ngô lai được đưa vào trồng trên diện tích lớn, phục vụ nhu cầu lương thực và chăn nuôi. Bên cạnh diện tích trồng màu trên đồng cao, đồi rừng, diện tích vụ đông của xã không ngừng tăng lên.

Bên cạnh việc tăng diện tích, năng suất cây trồng, chăn nuôi cũng được Đảng bộ quan tâm sát sao, từ chỗ chăn nuôi tập trung là chính, nay chuyển sang chăn nuôi hộ cá thể. Bởi vậy gia súc, gia cầm trong xã tăng nhanh cả về số lượng lẫn khối lượng.

Có thể nói, khoán 10 ra đời như làn gió mới thổi vào làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Thọ Sơn. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên, văn hóa - xã hội phát triển, làng quê đổi mới từng ngày, mọi người phấn khởi càng thêm tin tưởng vào Đảng, vào công cuộc đổi mới.

Những thắng lợi của Nghị quyết 10 trên quê hương Thọ Sơn đã góp phần khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo, khẳng định sự đoàn kết, nhạy bén sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân xã nhà.

Trên cơ sở những thắng lợi của Nghị quyết 10, Đảng bộ đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, tiến hành đổi mới toàn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc biệt là tập trung hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác khoán 10. Kiện toàn sắp xếp lại các ban ngành, đoàn thể trong xã, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội Đảng bộ đề ra.

Mặc dù đời sống nhân dân đã được cải thiện, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tình trạng người dân thiếu ăn lúc giáp hạt vẫn còn. Văn hóa xã hội có nhiều khởi sắc, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới. Trước đòi hỏi từ thực tế, trên cơ sở những nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, Đảng ủy đã chủ trương tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới cụ thể, sâu rộng hơn nữa, uốn nắn, khắc phục những lệch lạc phát sinh trong quá trình triển khai, thực hiện 3 chương trình kinh tế vận động theo kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Đời sống nhân dân trong xã được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy, lòng tin của nhân dân được củng cố, quốc phòng an ninh được giữ vững...

Xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội, từ năm 1986 đến 1990, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời có những chủ trương cụ thể sát thực với tình hình thực tiễn ở địa phương để phát triển ngành nghề, chăn nuôi, trồng và bảo vệ rừng. Trong chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ luôn quán triệt chủ trương: phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân, có sự điều hành của tập thể nhằm huy động tiềm lực trong dân cho sản xuất.

Công cuộc đổi mới, mà cụ thể là khoán 10 ra đời đã tạo luồng sinh khí mới trên quê hương Thọ Sơn. Năng suất, sản lượng không ngừng nâng lên. Năm 1986, tổng sản lượng lương thực toàn xã đạt 1.112 tấn, đến năm 1990, tăng lên 1.287 tấn. Bên cạnh hai vụ lúa, sản xuất màu giai đoạn này đã có bước phát triển mới, cuối nhiệm kỳ, diện tích màu đạt 90ha, sản lượng đạt 321 tấn.

Sản xuất phát triển, vốn tích lũy trong dân ngày một tăng, nhân dân đã chủ động, mạnh dạn đầu tư, thâm canh, nông cụ ngày một cải tiến, cơ khí dần thay thế thủ công. Trong xã đã có nhiều hộ mua công nông, máy xay sát, máy nghiền thức ăn gia súc...

Chăn nuôi hộ gia đình phát triển rất mạnh, đặc biệt là chăn nuôi gia súc như: lợn, bò. Ngoài ra, nhiều hộ tham gia nuôi lợn gia công, hợp tác xã cung ứng con giống, sau khi xuất chuồng bán lại cho hợp tác xã, trừ khối lượng ban đầu phần còn lại xã viên được nhận bằng tiền mặt hoặc bằng thóc. Phong trào nuôi lợn gia công đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho bà con. Các năm về sau, khi nền kinh tế hàng hóa dần hình thành thì nhà nhà nuôi lợn, người người nuôi lợn, không chỉ bà con nông dân nuôi lợn mà cán bộ nhà nước cũng tham gia nuôi lợn. Có thể nói giai đoạn này số lượng cũng như sản lượng đàn lợn tăng nhanh. Đàn trâu bò phát triển mạnh, nhất là sau khi hợp tác xã bán lại cho các hộ xã viên, năm 1990 số trâu bò đã tăng 15%, đàn lợn tăng 21% so với năm 1986. Với diện tích mặt nước lớn Thọ Sơn có điều kiện phát triển nuôi cá nước ngọt, mỗi năm cho sản lượng trên 12 tấn cá.

Để đạt được kết quả cao trong sản suất nông nghiệp, công tác thủy lợi đóng vai trò quyết định. Hằng năm sau các vụ thu hoạch, nhất là mùa khô, Đảng ủy đã ra những nghị quyết huy động hàng ngàn ngày công để nạo vét kênh mương, mỗi năm đào đắp được hàng ngàn mét khối đất, nhằm hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa, mương tưới, mương tiêu, các tuyến giao thông nội đồng ...

Thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, bên cạnh đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Thọ Sơn chú trọng phát triển các nghề thủ công như: đan lát, mộc, nề… Đồng thời mở rộng diện tích cây trồng có khả năng suất khẩu như: lạc, đay, ớt, lúa nếp… Năm 1990, thu nhập từ ngành nghề, dịch vụ tăng 27,5% so với năm 1986.

Giai đoạn này đời sống giáo viên các trường gặp nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục xuống thấp, tỷ lệ học sinh bỏ học cao. Trong hoàn cảnh giáo viên nhiều nơi trên toàn quốc bỏ nghề, nhưng thầy và trò trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn vẫn nêu cao khẩu hiệu “Thi đua dạy tốt, học tốt”. Tuy đời sống khó khăn, phòng học, bàn ghế thiếu thốn, nhưng tập thể giáo viên vẫn bám trường, bám lớp, động viên con em đến trường. Giai đoạn này, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn có 14 lớp, với 768 học sinh. Hàng năm, tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp luôn đạt 85 - 90%. Công tác xóa mù chữ được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo, Đảng ủy đã chỉ đạo thành lập Ban xóa mù chữ xã. Đầu năm 1990, Thọ Sơn triển khai chương trình P08 lồng ghép nhà trẻ với mẫu giáo, đây là những bước đi ban đầu để tiến tới thành lập trường Mầm non xã sau này.

Trạm y tế xã đã làm tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân, đặc biệt là công tác tiêm phòng cho trẻ em theo chương trình FBI do quốc tế tài trợ, toàn xã đã có gần 95,2% cháu được tiêm đủ 6 mũi vắc xin: bại liệt, uốn ván, ho gà, lao, bạch hầu, sởi. Trạm y tế đã phối hợp chặt chẽ với Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã làm tốt công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình, tỉ lệ sinh con thứ ba giảm mạnh. Tỉ lệ sinh tự giảm xuống còn 1,7% năm 1990. Công tác vệ sinh phòng dịch luôn được phát động như: ăn uống hợp vệ sinh, dọn dẹp đường làng ngõ xóm, xây nhà tiêu, chuồng trại hợp vệ sinh...

Trong 5 năm 1986 - 1990, mặc dù trên thế giới có những diễn biến phức tạp tác động xấu đến tình hình nước ta, nhưng quốc phòng - an ninh trên địa bàn xã vẫn đảm bảo ổn định. Để nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của kẻ thù, Đảng ủy luôn chỉ đạo dân quân tự vệ trong xã thường xuyên luyện tập, hàng năm tham gia diễn tập bắn đạn thật đạt kết quả cao. Năm 1989, Đảng ủy đã triển khai kế hoạch TH.89.02 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, đã quán triệt:

- Tăng cường lực lượng dự bị động viên, xây dựng làng xã chiến đấu.

- Thành lập và củng cố 1 đại đội, 2 trung đội dân quân tự vệ, 1 trung đội quân dự bị động viên luyện tập thường xuyên, chuẩn bị tham gia diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

- Nắm bắt, theo dõi những phần tử xấu, lưu manh, trộm cắp... để đề phòng và có kế hoạch đối phó.

Cũng thời gian này, cấp ủy, chính quyền xã Thọ Sơn tập trung chỉ đạo, thực hiện Chỉ thị 56/CT của Hội đồng Bộ trưởng về việc “xây dựng tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc”. Qua đợt triển khai này, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị động viên tăng lên rất cao, toàn Đảng, toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu của kẻ thù.

Công tác động viên thanh niên lên đường nhập ngũ luôn được Đảng ủy chỉ đạo sát sao. Hằng năm, xã luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu giao quân, với số lượng từ 9 - 12 người.

Năm 1987, thực hiện chỉ thị của cấp trên, Đảng bộ đã chỉ đạo ban công an xã, cùng các ban ngành tiến hành chiến dịch vận động thu hồi chất nổ, dao găm và các loại vũ khí khác. Kết quả người dân đã tự giác giao nộp 217 loại vũ khí như: dao găm, giáo, mác...

Năm 1989, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân triển khai Quyết định 195 của Hội đồng Bộ trưởng, Chỉ thị 17 của Bộ Nội vụ, Chỉ thị 19 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, mở chiến dịch KHZ về tấn công, trấn áp tội phạm. Thọ Sơn đã thành lập ban chỉ đạo do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm trưởng ban. Ban công an xã sẵn sàng trấn áp kịp thời những hành động gây mất trật tự an ninh, bảo vệ tốt mùa màng, tài sản của nhân dân, giải quyết dứt điểm những vụ việc tiêu cực xảy ra trên địa bàn xã.

Đây là giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta, nhiệm vụ củng cố, xây dựng tổ chức đảng được đặc biệt coi trọng. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, các năm 1989, 1990, Đảng bộ đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về công tác kiểm tra Đảng. Đặc biệt là Nghị quyết 24 của Tỉnh ủy về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy Nhà nước. Qua đợt học tập nghị quyết, Đảng bộ đã nghiêm túc đánh giá, thẳng thắn phê bình, đấu tranh với những tư tưởng hữu khuynh, giảm sức chiến đấu, vi phạm Điều lệ Đảng. Trong dịp này, Đảng bộ tiến hành kỷ luật 12 đảng viên, đưa những đảng viên sa sút về phẩm chất, ý chí ra khỏi Đảng. Qua triển khai Nghị quyết 24, sức chiến đấu và ý thức đảng viên trong Đảng bộ nâng lên rõ rệt, các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể thêm vững mạnh.

Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cán bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện mục tiêu Đại hội đề ra hòa chung công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng. Trên bước đường đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã gặp biết bao khó khăn, thử thách, nhưng với bản lĩnh kiên cường của những người Cộng sản, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn để giành được những thành công quan trọng. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 10-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã làm thay đổi căn bản sản xuất nông nghiệp và diện mạo nông thôn Thọ Sơn, khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đổi mới, khẳng định sự nhạy bén, năng động của Đảng bộ. Đó chính là động lực, là niềm tin để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững bước tiến lên trong công cuộc đổi mới.

2. Tiếp tục công cuộc thực hiện công cuộc đổi mới (1991 - 1995)

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào giai đoạn cách mạng mới trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên địa bàn xã bằng những nhiệm vụ cụ thể trên tất cả các lĩnh vực: đổi mới tư duy, đổi mới kế hoạch phát phát kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều hành, quản lý của chính quyền, đổi mới các hoạt động văn hóa thiết thực, phù hợp với nhu cầu của nhân dân, hạn chế tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường….

Thực hiện hướng dẫn của Huyện ủy Triệu Sơn, tháng 5 năm 1991, Đảng bộ Thọ Sơn tiến hành Đại hội lần thứ XIX. Đại hội đã bầu ra ban Chấp hành gồm 11 đồng chí. Đồng chí Bùi Văn An được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Lê Ngọc Bình Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư.

Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ các đại hội trước, Đại hội thống nhất đánh giá: qua 5 năm đổi mới các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, song nhìn chung đời sống của nhân dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; tình hình chính trị trên thế giới cũng như trong nước có tác động không tốt đến sự ổn định và phát triển của địa phương. Đứng trước những thuận lợi và khó khăn đó, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân trong xã phải đoàn kết, đồng sức, đồng lòng, năng động, sáng tạo đưa kinh tế phát triển, nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân.

Để đạt được chỉ tiêu về lương thực, thực phẩm, Đảng ủy đã có những giải pháp chỉ đạo, như: mở rộng diện tích sản xuất trên cơ sở tận dụng quỹ đất hiện có, khai hoang phục hóa, mở rộng diện tích vụ đông, thực hiện chuyển dịch cơ cấu giống lúa, thay dần các giống lúa cũ bằng các giống lúa lai, lúa thuần chủng có năng xuất cao như: Q5, 13/2, CR203... Có thể nói đây là những chủ trương hết sức đúng đắn góp phần đưa nông nghiệp Thọ Sơn có những bước phát triển mới.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Đại hội, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã vượt lên khó khăn dành được những thắng lợi trên mọi lĩnh vực: diện tích cây trồng được mở rộng, tổng sản lượng lương thực tăng lên đáng kể, chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chủng loại, kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Trên đà những thắng lợi trên, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững chắc tiến lên trên con đường đổi mới.

Để người nông dân thực sự làm chủ đồng ruộng, thực hiện Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy Thanh Hóa ngày 2 - 5 - 1993, Đảng bộ xã họp triển khai việc giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho nông dân. Đảng bộ chỉ đạo hợp tác xã rà soát lại ruộng đất, nhân khẩu trong địa phương để tiến hành chia lại ruộng một cách công bằng, ưu tiên những hộ chính sách, người già cả neo đơn.

Trong chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ luôn quán triệt chủ trương: phát huy tính tích cực chủ động của nhân dân, có sự định hướng, giúp đỡ của tập thể. Sản xuất phát triển, vốn tích lũy càng nhiều tạo điều kiện cho nhân dân tái đầu tư cho sản xuất. Nông cụ được cải tạo, lao động thủ công dần dần được thay bằng lao động cơ khí.

Diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lúa không ngừng được nâng lên. Việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ được Đảng bộ đặc biệt chú trọng. Bên cạnh các cây trồng truyền thống như: khoai lang, sắn, giống gô cũ… Đảng bộ chỉ đạo đưa cây ngô lai thành cây chủ lực. Vụ đông đang dần trở thành một vụ chính của người dân Thọ Sơn, với tổng diện tích đạt được năm 1995 là 92ha, sản lượng đạt 342 tấn.

Từ khi thực hiện khoán 10, hợp tác xã nông nghiệp giải thể trại chăn nuôi, khuyến khích chăn nuôi hộ gia đình. Nhìn chung chăn nuôi giai đoạn này gặp nhiều khó khăn do từ cuối năm 1994 dịch bệnh phát triển mạnh ở đàn lợn nên số lượng giảm mạnh. Địa pương đã tăng cường công tác dập dịch, vệ sinh chuồng trại, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên đến năm 1995, đàn gia súc, gia cầm được phục hồi. Tính đến năm 1995, đàn trâu bò có 870con, đàn lợn có 1.700con, số lượng cá thu được ước đạt 11 tấn.

Với những chủ trương đúng đắn, Đảng bộ Thọ Sơn đã khơi dậy được sức mạnh toàn dân, làm tốt công tác kiên cố hóa hệ thống kênh mương, góp phần chủ động tưới tiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân canh tác, đưa năng suất cây trồng ngày một lên cao.

Về lâm nghiệp: thực hiện chương trình kinh tế vùng đồi do Đại hội lần thứ XII Đảng bộ huyện Triệu Sơn đề ra nhằm thu hút lao động tạo ra hàng hóa ngày càng lớn. Thọ Sơn có 390ha đất lâm nghiệp, thực hiện chỉ đạo của huyện Triệu Sơn, chính quyền đã lập đề án từng bước giao cho dân để bảo vệ rừng tái sinh, trồng rừng và trồng cây công nghiệp ngắn ngày. Trước mắt trồng chè ở khu đồi có độ dốc thấp, tiến trồng mía ở khu đồi có diện tích dưới 15 độ, khu vực có độ dốc cao hơn thì trồng bạch đàn, bảo vệ rừng tái sinh.

Cùng với chương trình phát triển kinh tế vùng đồi và thực hiện dự án 327, huyện Triệu Sơn đã di dời 1.000 hộ dân lên vùng kinh tế mới, cùng với xóm Bảo Lâm của Thọ Sơn và xóm Thoi của Thọ Bình để thành lập xã Bình Sơn. Cả một vùng đồi núi phía tây của huyện thuộc các xã Thọ Sơn, Thọ Bình đã thức dậy, với bàn tay, khối óc của hàng ngàn người biến đồi hoang cỏ úa thành một màu xanh của nương chè, nương mía, đồi cây… Đặc biệt việc đưa cây mía vào trồng với diện tích lớn, năm 1995 trồng được trên 65ha đạt 4.100 tấn, mở ra hướng đi mới trong sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày ở địa phương.

Ngành nghề ở địa phương cũng có bước phát triển mới. Các phương tiện vận tải như xe công nông, xe gia súc kéo phát triển mạnh. Năm 1994, số máy xay sát, máy nghiền thức ăn gia súc, máy làm đất… có gần 30 chiếc.  Các ngành nghề như: khai thác vật liệu, làm gạch, đan lát, xây dựng… phát triển khá. Tổng giá trị ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp… năm 1994 tăng lên 520 triệu đồng (thời giá năm 1994).

Về xây dựng cơ bản: Đảng bộ chủ trương: phát triển kinh tế luôn đi đôi với ổn định xã hội, nâng cao dân trí, đảm bảo công bằng xã hội. Vì vậy, việc xây dựng các công trình phục vụ sản xuất, các công trình phúc lợi phục vụ nhân dân luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân xã nhà. Trong giai đoạn 10 năm (1986 – 1995), Thọ Sơn đã tiến hành tu bổ, làm mới các công trình để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân như: lắp 1 trạm điện và hệ thống đường dây phục vụ nhân dân, tu bổ, cải tạo tuyến đường liên hương lên làng Nác Nã, tu bổ hệ thống hồ đập, mương máng phục vụ tưới tiêu…

Thực hiện chủ trương “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học cũng được quan tâm hơn. Các khu nhà trẻ, mẫu giáo ở các thôn được tu sửa, đảm bảo cho các cháu có nơi học tập. Trường phổ thông cơ sở được làm thêm phòng học, đóng mới bàn ghế để học sinh có nơi học tập.

Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, những con đường làng ngõ xóm xưa kia gồ ghề, lầy lội dần dần được mở rộng, tôn cao, hệ thống kênh mương từng bước được cải tạo.

Giai đoạn 1986 – 1995, Thọ Sơn có nhiều cố gắng để cải tạo cơ sở vật chất hạ tầng. Đảng bộ và nhân dân trong xã đã vận dụng nội lực của mình và tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước để xây dựng được một số công trình phúc lợi phục vụ sản suất và dân sinh. Tuy nhiên, là một xã miền núi, điều kiện sản xuất, sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, đầu tư của Nhà nước cho địa phương còn hạn chế nên nhìn chung cơ sở vật chất của xã còn nghèo nàn, xây dựng, cải tạo chủ yếu mang tính chắp vá để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Nhưng những gì mà cán bộ, nhân dân Thọ Sơn làm được sau 10 đổi mới là quan trọng.

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn luôn nhận thức rõ văn hóa là nền tảng của xã hội, là động lực của sự phát triển. Năm 1991, Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa có Công văn số 33/VHTT hướng dẫn khai trương xây dựng làng văn hóa, Đảng ủy, chính quyền nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội ở địa phương, góp phần quan trọng để thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới.

Đảng bộ đã xác định xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thọ Sơn đã tổ chức Đại hội đại biểu các gia đình văn hóa mới. Hàng năm đưa ra các chỉ tiêu để các gia đình đăng ký, thi đua phấn đấu, việc bình xét được tổ chức công khai dân chủ, những gia đình được xét công nhận đều được biểu dương khen thưởng và cấp giấy chứng nhận.

Phong trào xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, năm 1989 toàn xã có gần 30% số hộ nghèo, thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn. Đảng bộ, chính quyền đã quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các gia đình phát triển kinh tế vươn lên thoát nghèo. Kết quả đến năm 1995, số hộ nghèo trong xã giảm xuống còn 18%. Các hộ gia đình chính sách được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể quan tâm giúp đỡ, trong 5 năm 1991 - 1995, toàn xã đã quyên góp, tặng 17 sổ tiết kiệm cho các hộ chính sách gặp khó khăn.

Giáo dục có những bước tiến đáng kể, mặc dù cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng thầy và trò trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn vẫn thi đua dạy tốt - học tốt. Tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp trung bình hàng năm đạt 91%. Ngày 23 - 8 - 1993, Trường Phổ thông cơ sở Thọ Sơn được chia tách thành trường Tiểu học Thọ Sơn do thầy Lê Kim Thuấn (Vân Sơn) làm hiệu trường và trường Trung học cơ sở Thọ Sơn do thầy Trần Thanh Tuấn (Hợp Thắng) làm hiệu trưởng. Đây là giai đoạn các trường gặp nhiều khó khăn: học sinh phải học 3 ca, giáo viên thiếu, đời sống gặp nhiều khó khăn. Dù vậy, bằng nỗ lực của các thầy cô giáo, với sự động viên của các cấp ủy chính quyền, chất lượng giáo dục có những chuyển biến rõ nét, tỉ lệ học sinh đậu vào trường trung học phổ thông đạt 56%. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ đạt 90%, hằng năm vận động được 97% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Dù vậy, đây là giai đoạn giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất như: phòng học, bàn ghế, đồ dung dạy học thiếu thốn, tỷ lệ học sinh lưu ban, ngồi nhầm lớp còn cao…

Công tác y tế giữ được ổn định, nhất là công tác y tế dự phòng. Các phong trào như: tiêm vắc xin cho trẻ, chương trình PAM chăm sóc trẻ và bà mẹ mang thai... được triển khai hiệu quả. Phong trào đào giếng, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh được duy trì, dù kết quả chưa cao. Công tác kế hoạch hóa gia đình luôn được Đảng bộ, ngành y tế, Hội Phụ nữ và các ban ngành trong xã quan tâm sâu sát, tỷ lệ sinh con thứ ba giảm xuống còn 1,45%.

Mặc dù đây là thời bình nhưng nguy cơ bất ổn xã hội vẫn tiềm ẩn, nhất là khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh xã hội trên, Đảng bộ tập trung lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu đập tan âm mưu bạo loạn, chia rẽ của kẻ thù. Lực lượng dân quân được huấn luyện thường xuyên, định kỳ tổ chức diễn tập theo kế hoạch của huyện đội, xã đội. Công tác đăng ký quân dự bị động viên được tiến hành thường xuyên, hàng năm giao quân đều đạt và vượt mức chỉ tiêu.

An ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương được giữ vững. Hoạt động của các tổ an ninh, tổ hòa giải ở các thôn dần đi vào nền nếp. Cùng với dân quân tự vệ, ban công an xã đã phối hợp lên phương án sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bạo loạn, gây rối trật tự, trị an, giải quyết được nhiều vụ việc phức tạp, giữ vững trật tự an ninh trong xã.

Về công tác Đảng, năm 1993, Đảng bộ tổ chức Đại hội lần thứ XX. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí, đồng chí Bùi Văn An được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Ngọc Bình Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu lại làm Phó Bí thư. Nghị quyết các Đại hội đã tập trung đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương trong nhiệm kỳ vừa qua. Đánh giá một cách khách quan những mặt tích cực, những thành tựu đã đạt được, thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, yếu kém trong nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời đề ra những định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên được Đảng bộ coi trọng. Việc thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) được tiến hành nghiêm túc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đi sâu vào xây dựng bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng bộ đã tổ chức cho đảng viên học chương trình lý luận cơ sở, đưa nhiều cán bộ đi học trung cấp chính trị, quản lý Nhà nước tại Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa...

Đợt sinh hoạt phê bình và tự phê bình theo tinh thần Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng được Đảng bộ triển khai chặt chẽ, chu đáo nên đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Ý thức chấp hành Điều lệ Đảng, và hoàn thành nhiệm vụ của đảng viên được giao tốt hơn. Đa số các đồng chí trong Đảng bộ giữ vững được lập trường, tư tưởng, vai trò tiền phong gương mẫu và sức chiến đấu của mình, nhưng cũng còn một số đồng chí tỏ ra hoang mang, dao động khi tình hình thế giới có biến động, thiếu gương mẫu trong lối sống và công tác. Vì vậy, Đảng bộ đã kỷ luật 9 đảng viên vi phạm kỉ luật Đảng (bao gồm cả những đảng viên vi phạm chính sách dân số), giảm sức chiến đấu, trong đó có một số đồng chí bị khai trừ và xóa tên.

Song song với việc làm trong sạch đội ngũ, công tác bồi dưỡng, giáo dục, và phát triển đảng viên luôn được Đảng bộ quan tâm. Đảng bộ đã tổ chức cho nhiều thanh niên tham gia học lớp cảm tình Đảng và xét kết nạp cho những thanh niên ưu tú đứng vào đội ngũ của Đảng, giai đoạn 1986 - 1995, Đảng bộ đã kết nạp được 8 đảng viên nhằm tăng thêm sức chiến đấu của tổ chức đảng ở địa phương.

Nhận thức rõ chính quyền đoàn thể cơ sở vững mạnh là nhân tố quyết định thắng lợi trên mọi mặt ở địa phương, Đảng bộ Thọ Sơn đã tập trung lãnh đạo xây dựng chính quyền vững mạnh. Đảng bộ đã ra nghị quyết chuyên đề về xây dựng chính quyền và nghị quyết về công tác của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm từng bước đưa các hoạt động của các tổ chức này lên cao, phù hợp với thời kỳ đổi mới.

Giai đoạn này, Hội Cựu chiến binh xã được thành lập, đồng chí Bùi Văn Bịn được bầu làm Chủ tịch.

Để phù hợp với cơ chế quản lý mới, Đảng ủy đã quyết định giải thể hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã nông nghiệp. Toàn bộ việc quản lý ruộng đất, tài sản và điều hành sản xuất giao cho Ủy ban nhân dân xã. Đồng thời chuẩn bị thành lập hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng yêu sản xuất trong giai đoạn mới.

Trong 10 năm (1986 – 1995), thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã giành được những thành tựu to lớn và toàn diện. Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, diện mạo nông thôn thay đổi đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới trong cả nước. Qua thực tiễn của quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, với vai trò tiên phong của mình. Những thành công của mười năm đổi mới là cơ sở vững chắc để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững bước trên con đường đi tới.

II.  TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓANÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1996 - 2015)

1. Thọ Sơn  trong giai đoạn đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (1996 - 2000)

Ngày 28 tháng 6 năm 1996, tại thủ đô Hà Nội đã tiến hành khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Đại hội khẳng định: “Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã hoàn thành cơ bản cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.([42]) Đại hội đã đưa ra mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại...

Đảng bộ Thọ Sơn đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng bộ, nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện ủy Triệu Sơn lần thứ VIII (tháng 3 - 1996), và đề ra chương trình hành động của địa phương trong giai đoạn mới.

Qua học tập nghị quyết, các đồng chí đảng viên trong Đảng bộ nắm vững chủ trương của Đảng trong tình hình mới: “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản. Đảng ta coi trọng tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu, là công việc thường xuyên đảm bảo cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ cách mạng”[43]. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong mọi hành động của mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ.

Thực hiện chỉ đạo của huyện ủy, tháng 5 năm 1996, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI được tổ chức. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ trước, Đại hội khẳng định: Đảng bộ và nhân dân đã đoàn kết, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, giành được những thắng lợi quan trọng, đạt được một số chỉ tiêu cơ bản Đại hội đề ra. Những thành tích trên tuy khiêm tốn, nhưng đã góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn phấn đấu đạt kết quả cao hơn trong thời gian tới.

Tuy nhiên, đây là giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi lúng túng, bỡ ngỡ. Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, dũng cảm nhận khuyết điểm để tiến lên, Đảng bộ đã chỉ ra những tồn tại cần khắc phục là: Nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế có chuyển biến, nhưng chuyển dịch kinh tế còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai, đồi rừng và vị trí địa lí của địa phương; tình hình nợ sản trong nhân dân vẫn còn nhiều; ngành nghề chưa phát triển; tư duy kinh tế của số đông cán bộ, nhân dân vẫn chưa bắt kịp yêu cầu của thị trường...

Về phát triển nông nghiệp, Đảng bộ quán triệt giải pháp mà Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng bộ huyện Triệu Sơn đưa ra là: “Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp và phát triển nông thôn, bao gồm: đổi mới cơ cấu mùa vụ, cây con theo hướng sản xuất hàng hóa, mở rộng vụ đông đạt 50% diện tích đất lúa; phát triển đàn bò lai Sin, lợn hướng nạc, gà công nghiệp, dê, ong rừng; mở rộng diện tích mía, lạc, cây ăn quả, ổn định diện tích chè; phát triển vành đai xanh, hoàn thành dự án trồng rừng 327. Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương đã xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm từng bước đưa nghị quyết vào cuộc sống, phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế, xã hội Đại hội đề ra.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Lê Ngọc Bình được bầu làm làm Bí thư; đồng chí Bùi Văn Khuy Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được bầu làm Phó Bí thư.

Cũng như các địa phương khác trong vùng, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn luôn được coi là mặt trận hàng đầu. Sau khi thực hiện khoán 10, nhất là sau khi giao đất ổn định, lâu dài cho nông dân, nông nghiệp phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ ngàn đời nay, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn là quá trình vật lộn với mưa dông, nắng hạn để làm ra củ khoai, hạt thóc. Ngay trong năm đầu tiên thực hiện kế hoạch của Đại hội Đảng bộ, vụ chiêm xuân 1996, sản xuất nông nghiệp ở Thọ Sơn phải trải qua trận rét đậm ảnh hưởng lớn đến vật nuôi, cây trồng. Suốt nhiều ngày liên tục, nhiệt độ luôn xuống dưới 100C, cấp ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo nhân dân chống rét cho lúa và đàn gia súc. Dù vậy, lúa vẫn chết hàng loạt, số diện tích lúa chết lên tới 27%, trong đó có nhiều diện tích không có khả năng hồi phục phải cấy lại hoàn toàn. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ tập trung chỉ đạo nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai. Trước hết tập trung chăm sóc những trà lúa còn lại, những ruộng bị chết một phần thì tập trung nhân lực cấy bổ sung giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn như: CR202, CN02... Nhân dân tiến hành gieo mạ trên sân, chăm sóc đúng kỹ thuật để cấy kịp thời vụ, chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ diện tích đã được cấy hết. Thành quả lao động vất vả của nhân dân đã cho vụ chiêm thắng lợi, nhân dân phấn khởi, củng cố niềm tin đối với Đảng. Vụ chiêm qua đi trong giá rét, vụ mùa lại đến với bão dông, lũ lụt. Bốn trận áp thấp liên tiếp đã tạo nên những trận lụt triền miên, nước từ trên núi theo suối đổ về đe dọa các công trình thủy lợi, gây thiệt hại nặng, năng suất lúa vụ này giảm trung bình 20%, riêng sản xuất vụ đông bị thiệt hại nặng. Năng suất giảm, việc thu sản gặp rất nhiều khó khăn, cho đến cuối năm vẫn còn tồn đọng ở một số đội sản xuất, dù vậy, địa phương vẫn quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Thực hiện Nghị quyết 01 của Huyện ủy, ngày 31 - 8 - 1996 về chỉ đạo sản xuất vụ đông, địa phương đã tăng cường chỉ đạo sản xuất vụ đông. Các chi bộ đều ra nghị quyết yêu cầu các đồng chí đảng viên phải gương mẫu đi đầu để nhân dân noi theo. Để khuyến khích sản xuất vụ đông, tỉnh có chủ trương cho nhân dân vay vốn không phải trả lãi, khi thu hoạch xong (thời gian 4 tháng) mới trả gốc. Địa phương đã tranh thủ nguồn vốn vay hỗ trợ, đồng thời xuất tiền trợ giá cho nhân dân mua giống, phân bón theo đầu sào. Thời gian này Thọ Sơn tiếp tục đưa các giống cây có năng suất cao như: ngô lai bioseed, ngô lai số 9... vào sản xuất. Công tác thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ tài sản... cũng được triển khai nhằm hỗ trợ nhân dân sản xuất. Chính vì vậy, giai đoạn này sản xuất vụ đông ở Thọ Sơn tăng trưởng khá, đến năm 1999 đạt 110ha chủ yếu là ngô lai, diện tích, sản lượng tăng 2 lần so với năm 1995. Như vậy, nếu tính cả màu quy thóc, tổng sản lượng lương thực đạt 1.820 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 440kg/năm. Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, năm 1995, tỷ lệ hộ nghèo năm 2000 giảm xuống còn 15%.

Thời gian này, Đảng bộ tập trung chỉ đạo việc thành lập hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thay thế mô hình hợp tác xã nông nghiệp trước kia. Sự ra đời hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là bước đi tất yếu trong quá trình đổi mới quản lý nông nghiệp ở nông thôn. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chức năng cung ứng các dịch vụ cho sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật... Đây là mô hình hợp tác xã mới phù hợp với việc chuyển đổi trong quản lý nông nghiệp giai đoạn này, tuy nhiên do nhiều lý do hoạt động của hợp tác xã gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại hình dịch vụ tư nhân khác.

Cũng trong thời gian này, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện Chỉ thị 13/CT-TU (3-9-1998) của Tỉnh ủy Thanh Hóa về việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ lên ô thửa lớn. Trước đây, trung bình mỗi hộ có từ 5 đến 7 thửa ruộng, phân tán ở nhiều xứ đồng. Khi sản xuất phát triển đã nảy sinh những bất cập, nhất là việc đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng, chuyển dịch cơ cấu và đưa sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Quán triệt nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn, trên cơ sở thực tế địa phương, Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã phát huy quyền làm chủ của tập thể nhân dân, tăng cường công tác tuyên truyền để nhân dân thấy rõ lợi ích của việc dồn điền đổi thửa. Khi tiến hành phải đảm bảo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và dân chủ”, lấy thôn làm đơn vị chuyển đổi, ổn định hạng đất để tính thuế. Nhờ chuẩn bị chu đáo, được sự đồng thuận của đa số nhân dân, việc dồn điền đổi thửa ở Thọ Sơn đã đạt kết quả tốt. Thành công này góp phần quan trọng để địa phương tiếp tục quy hoạch lại đồng ruộng, đất đai được tích tụ theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Một nhiệm vụ khác được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo là chương trình kiên cố hóa kênh mương nội đồng. Bằng nguồn vốn tự có cùng với sự hỗ trợ của cấp trên, địa phương đã tiến hành kiên cố hóa được 850m mương, tu bổ hệ thống đường liên hương... Tuy nhiên, là một xã vùng xa của huyện Triệu Sơn, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên kết quả xây dựng cơ sở vật chất còn thấp, cả xã chưa đổ bê tông được tuyến đường giao thông nào.

Từ năm 1999, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy về chương trình giống lúa lai. Thực tế sản xuất ở địa phương đã cho thấy, muốn có năng suất vượt bậc thì giống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Những giống lúa thuần chủng có năng suất cao, những giống lúa lai đã góp phần quan trọng đưa tổng sản lượng lương thực ở địa phương lên cao. Tuy nhiên, do thói quen của người nông dân ngại đổi mới, hơn nữa khi cấy giống lúa mới yêu cầu kỹ thuật cao hơn, nên nhiều người ngại làm. Đảng ủy đã có nghị quyết chuyên đề về việc nhân rộng diện tích lúa lai ở địa phương. Địa phương đã xây dựng thành công vùng giống thuần cấp 1 phục vụ yêu cầu cho nhân dân trong xã.

Là một địa phương miền núi, chăn nuôi gia súc, nhất là bò có nhiều chuyển biến. Việc đưa các biện pháp kỹ thuật vào chăn nuôi như: con giống, thức ăn, phòng dịch khiến vòng quay trong chăn nuôi nhanh hơn, giá trị hàng hóa cũng ngày một cao. Tổng thu nhập từ chăn nuôi mỗi năm tăng 4%, chiếm khoảng 20% tổng thu nhập của xã. Nhiều mô hình chăn nuôi quy mô tương đối lớn đã xuất hiện, một số hộ có có thu nhập 10 - 15 triệu đồng/năm. Nhìn chung giai đoạn này chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất vẫn còn mang tính quảng canh, vấn đề đầu ra cho sản phẩm bấp bênh, nhiều khi người sản xuất lãi rất thấp.

Thực hiện dự án phát triển kinh tế đồi rừng của huyện, lâm nghiệp ở địa phương có bước phát triển mới. Toàn xã có 390ha đất lâm nghiệp, địa phương đã làm thủ tục cấp lâm bạ cho các hộ được giao đất tại một số khu vực để nhân dân yên tâm sản xuất. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện Triệu Sơn, Ủy ban nhân dân xã đã có đề án khai thác hiệu quả đất vùng đồi. Căn cứ vào độ dốc, chất đất để phân bố các khu vực gồm: bảo vệ rừng tái sinh, trồng rừng, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, nuôi cá, nuôi ong... Trong năm 5 (1995 – 2000) đã trồng được 72ha cây lâm nghiệp, trong đó có 35ha trồng theo chương trình 135. Đặc biệt việc đưa cây mía về trồng ở địa phương đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đến năm 1998, Thọ Sơn đã trồng được 260ha mía nguyên liệu, gấp 4 lần so với năm 1995, sản lượng đạt 11.000 tấn, năm 2000 đạt 18.000 tấn (tăng hơn 4 lần so với năm 1995), trung bình mỗi năm đạt 3,5 tỷ đồng, tương đương với thu nhập từ cây lương thực. Đầu năm 2000, dự án trồng cây cà phê co Công ty Cà phê, cao su Thanh Hóa triển khai đã trồng được 60ha cà phê, sau đó tiếp tục mở rộng.

Giai đoạn này, Thọ Sơn đã có 18 trang trại trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, nuôi ong, thả cá có diện tích 3 - 40ha mỗi trang trại. Một số trang trại có thu nhập khá, mỗi năm đạt 20 - 40 triệu đồng.

Ngành nghề, dịch vụ đã có nhiều khởi sắc. Các nghề như: sản xuất gạch ngói, nghề mộc, nề, sửa chữa cơ khí, vận chuyển, dịch vụ làm đất, làm nấm… đã thu hút hàng trăm lao động, tăng thêm thu nhập cho nhân dân.

Giai đoạn này, Thọ Sơn đã xây dựng được một số công trình phục vụ sản xuất, dân sinh và các công trình phúc lợi xã hội như: nâng cấp phòng học, đầu tư trang thiết bị Trường Tiểu học theo chương trình chuẩn Quốc gia, xây dựng mới 2 nhà trạm y tế, xây dựng lại chợ, cải tạo đường điện, xây dựng tượng đài liệt sỹ, kiên cố hóa 1,6km kênh mương, xây dựng các đường xương cá ở các cụm dân cư… với tổng kinh phí đầu tư trên 600 triệu đồng.

Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Sau hơn mười năm đổi mới, đời sống kinh tế xã hội có bước phát triển, nhu cầu về văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên. Các phương tiện nghe nhìn như: ti vi, đài, video ngày càng phổ biến.

Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là lớp trẻ. Lối sống thực dụng len lỏi vào làng quê. Các hủ tục lạc hậu như: ăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tín, dị đoan, nạn lô đề có xu hướng phát triển.

Từ năm 1995, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể triển khai học tập đến toàn thể nhân dân và có kế hoạch cụ thể đưa các cuộc vận động trên thành một phong trào thi đua rộng khắp trong toàn dân. Các phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, xây dựng gia đình văn hóa mới” tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào đã khơi dậy nét đẹp văn hóa ngàn đời của làng quê Việt Nam như: thương yêu đùm bọc lẫn nhau, nết thảo hiền, đức hiếu nghĩa, thực sự coi gia đình là tế bào của xã hội, qua đó giáo dục các thành viên. Năm 1996, toàn xã có 55% gia đình được cấp giấy công nhận gia đình văn hóa, đến năm 2000, số gia đình văn hóa của xã đạt trên 67% hộ.

Thực hiện Nghị quyết V (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo bằng nhiều giải pháp thực hiện, trong đó tập trung xây dựng làng văn hóa. Đến năm 2000, Thọ Sơn đã tổ chức khai trương được 3 làng văn hóa là: Nác Nã, Đồng Chiêm và thị Tứ Tân Sơn.

Giai đoạn này, trên diện rộng giáo dục trên đà hồi phục và có chiều hướng phát triển. Năm 1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) có Nghị quyết 02 về công tác giáo dục đào tạo, đánh giá thực trạng nền giáo dục nước nhà, định hướng cho phát triển giáo dục giai đoạn tới và lần nữa khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Dù ngân sách còn hạn hẹp, nhưng cơ sở vật chất nhà trường được quan tâm cải tạo, nhân dân đã tích cực đóng góp xây dựng để con em có nơi học tập thuận lợi, xóa tình trạng học 3 ca. Năm 1995, trường Mầm non chính thức được thành lập trên cơ sở khối mẫu giáo và khối nhà trẻ trước kia. Địa phương đã xây dựng được khu trường trung tâm, thu hút các cháu đến học.

Chất lượng dạy và học của các trường không ngừng được nâng lên. Tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp đạt 95 – 97%, tỷ lệ học sinh khá giỏi đạt 37%.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh môi trường của trạm y tế được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Trạm y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ thầy thuốc, hằng năm khám và điều trị ban đầu cho hàng ngàn lượt người. Trạm tiếp tục tham mưu cho lãnh đạo địa phương đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tiêu và giếng nước hợp vệ sinh. Kết quả chưa thực sự cao nhưng cũng đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường sống. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, tỷ lệ sinh con thứ 3 ở địa phương giảm mạnh, năm 1999, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,21%.

Công tác xóa đói, giảm nghèo và chính sách xã hội được thực hiện nghiêm túc. Ủy ban nhân dân xã đã liên hệ với ngân hàng chính sách cho hơn 300 hộ ngèo vay vốn sản xuất, với số tiền gần 600 triệu đồng. Năm 2000, số hộ nghèo tính theo tiêu chí mới là 14,9% (tiêu chí cũ là 22,6%).

Sau hơn mười năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tuy nhiên các thế lực thù địch vẫn điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam thông qua diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ. Một số bọn phản động lưu vong ở nước ngoài lén lút trở về Việt Nam hoạt động. Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế gắn với an ninh, quốc phòng, phát triển lực lượng quân sự tại chỗ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Giai đoạn này công tác đăng ký quân nhân dự bị được duy trì thường xuyên. Các trung đội dân quân duy trì huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu khi có chiến tranh xảy ra. Chỉ tiêu giao quân của xã luôn hoàn thành, trung bình mỗi năm địa phương có 10 - 15 thanh niên nhập ngũ.

Công tác an ninh chính trị, trật tự xã hội được duy trì tốt. Các tổ an ninh cơ sở hoạt động có hiệu quả, lực lượng công an đã giải quyết các vụ việc, không để xảy ra vụ việc lớn nào ở địa phương.

Xác định rõ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiều năm qua Đảng bộ tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên quê hương. Đảng bộ luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và mỗi đảng viên, coi đó là yếu tố quyết định cho mọi thắng lợi ở địa phương. Thời gian qua, khi tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình trong nước gặp nhiều khó khăn, không ít đảng viên đã tỏ ra hoang mang, dao động, giảm sức chiến đấu.

Thực hiện hướng dẫn của cấp trên, Đảng bộ đã tiến hành triển khai Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay. Qua việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên tự đối chiếu với việc hoàn thành nhiệm vụ, tư cách đảng viên để tu dưỡng, rèn luyện. Kết quả phân loại năm 2000 như sau: Tổng số đảng viên dự phân loại: 172, trong đó đảng viên loại 1: 161, đảng viên loại 2: 10, đảng viên loại 3: 1 đảng viên. Tổng số chi bộ: 18, trong đó: trong sạch vững mạnh: 13, khá: 5, yếu kém: 0. Đảng bộ đạt trong sach vững mạnh.

Giai đoạn này, Đảng ủy đã giới thiệu 9 đồng chí đi học trương trình trung cấp chính trị và quản lý Nhà nước, 3 đồng chí đi học chương trình sơ cấp, kết nạp được 28 đảng viên mới.

Qua các lần kiện toàn lại bộ máy, Đảng bộ quan tâm đến việc lựa chọn nhân sự, nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực hiện Nghị định 09/NĐ-CP của Chính phủ, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ngày càng được đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng công việc ngày càng cao của địa phương.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là thực hiện tốt Nghị định 29/1998 của Chính phủ về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Qua thực hiện Nghị định 28, quyền làm chủ của nhân dân lao động được phát huy cao hơn. Người dân được bàn, được làm, giám sát thực hiện nhiều công việc theo quy định, nhất là việc xây dựng các công trình phúc lợi. Qua đó, chất lượng công trình cao hơn, nhân dân thêm tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, tự nguyện đóng góp để xây dựng nhiều công trình như: điện, giao thông... đạt kết quả cao.

Các tổ chức đoàn thể đã có nhiều hoạt động phù hợp với tổ chức mình để vận động hội viên, đoàn viên đóng góp tích cực cho các phong trào chung của xã. Giai đoạn này có nhiều hoạt động, trong đó tiêu biểu là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phong trào xóa đói giảm nghèo, phong trào xóa bỏ nhà tranh tre nứa lá. Những kết quả trên là bước tạo đà quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn tiếp tục vững bước trên chặng đường tiếp theo.

2.     Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2005

Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện nhiệm vụ giai đoạn này bằng một sự kiện quan trọng, tháng 10 năm 2000, tại hội trường của xã, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXII được tổ chức. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Lê Ngọc Bình được bầu lại làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Duy Quý Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó bí thư.

Với tinh thần: Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết - Đổi mới, Đại hội đã đi sâu đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ giai đoạn vừa qua, khẳng định những thành tích đạt được trong 15 năm đổi mới, đặc biệt là việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội nhiệm kỳ vừa qua là quan trọng và căn bản, tạo tiền đề để địa phương đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn ở bước cao hơn.

Trên cơ sở thực tế địa phương và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát cho nhiệm kỳ 2000 - 2005 là: Tranh thủ thời cơ thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn thử thách đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn những năm trước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực khai thác mọi tiềm năng để phát triển; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao quản lý, điều hành của chính quyền; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh...

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXII trong điều kiện có những thuận lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm kinh tế địa phương còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo khá cao, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và phúc lợi xã hội nghèo nàn, yếu kém, giá cả nông sản không ổn định, đầu ra gặp khó khăn, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra…

Thực tế ấy đòi hỏi cán bộ và nhân dân đoàn kết, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn vươn lên trên các mặt kinh trế, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Văn hóa xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng được cải tạo, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.

Trong lúc Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đang ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thì ngày 19 tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng ta khi bước vào thế kỷ XXI. Đại hội khẳng định: “Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.

Đảng bộ đã tổ chức cho đảng viên học tập nghị quyết Đại hội IX, qua học tập các đồng chí đảng viên nhận thức sâu sắc hơn về con đường cách mạng của Đảng, tự hào về những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta giành được. “Đối với nước ta, thế kỷ   XX là thế kỷ   của những biến đổi to lớn, thế kỷ của đấu tranh oanh liệt giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ   của những chiến công và thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử và thời đại.

Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, củng cố niềm tin của đảng viên và quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong lúc các thế lực thù địch đang tăng cường xuyên tạc đường lối của Đảng ta. Cũng qua học tập Nghị quyết Đại hội, nội dung tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh được cán bộ, đảng viên tiếp thu tương đối toàn diện và có hệ thống.

Đảng bộ đã đề ra chương trình hành động cụ thể, phát động toàn dân hăng hái thi đua vì mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, quê hương giàu mạnh. Phát huy truyền thống của quê hương, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vượt qua mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, từng bước xây dựng cuộc sống mới và thu được nhiều thành tích đáng phấn khởi.

Thực hiện chủ trương coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, Đảng bộ và chính quyền tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi. Thực hiện đồng bộ các biện pháp thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất hai vụ lúa, mở rộng diện tích vụ đông trên đất 2 lúa, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Kinh tế đồi rừng, ngành nghề, dịch vụ cũng tiếp tục phát triển, góp phần quan trọng đưa tăng trưởng kinh tế hằng năm đạt 10,5% (vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra 0,5%). Trong đó nông nghiệp tăng 6%, dịch vụ, công nghiệp tăng 45%. Bình quân thu nhập đầu người đạt 6 triệu đồng/năm.

Nhờ có nhiều biện pháp tích cực nên sản xuất nông nghiệp hàng năm đều tăng về diện tích, năng suất, sản lượng. Đến năm 2004, năng suất bình quân cả năm đạt 11 tấn/ha, tổng sản lượng quy thóc đạt 2.116 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 480kg/năm. Sản xuất vụ đông đạt kết quả khá, người dân tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đưa những cấy có giá trị kinh tế cao như: ngô lai, các loại rau màu có giá trị kinh tế đưa mỗi héc ta lên trên 30 triệu đồng.

Theo chỉ đạo của huyện, Ủy ban nhân dân xã đã lập đề án chăn nuôi giai đoạn 2003 - 2010, có nhiều biện pháp thúc đẩy chăn nuôi trên địa bàn phát triển. Đến năm 2004, đàn trâu có 636 con, tăng 80% so với nhiệm kỳ trước. Chương trình sin hóa đàn bò, cải tạo tầm vóc và nâng cao giá trị kinh tế trong chăn nuôi bò được triển khai có hiệu quả. Đàn lợn có 2.625 con, đàn gia cầm trên 20.000 tăng 17% so với nhiệm kỳ trước. Phong trào nuôi cá, nuôi ong vẫn được duy trì mang lại lợi ích kinh tế cho người dân. Trong chăn nuôi quy mô dần được mở rộng theo hướng bán công nghiệp, toàn xã đã xây dựng được 12 trang trại, trong đó có 5 trang trại thu nhập trên 50 triệu đồng/năm.

Lâm nghiệp của địa phương tiếp tục phát triển, trồng mới được 35ha rừng, đưa diện tích cây lâm nghiệp lên 245ha. Trong đó có 46ha diện tích luồng và cây lấy gỗ cho thu hoạch, trung bình thu nhập từ lâm nghiệp mỗi năm đạt trên 1 tỷ đồng. Sản suất mía vẫn phát triển ổn định với 270ha, trung bình sản lượng đạt 17.000 tấn/năm.

Dịch vụ, thương nghiệp, việc làm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương. Quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ngày càng thể hiện rõ nét ở Thọ Sơn. Lao động thủ công giảm đi, thay vào đó là các loại máy móc phát triển ngày càng nhiều. Một số công đoạn trong sản xuất như: làm đất, vận chuyển, tuốt lúa, hoặc làm mộc, dịch vụ sửa chữa... hầu hết bằng cơ giới và điện. Tổng số hộ làm ngành nghề, dịch vụ trong xã có 210 hộ, thu hút 600 lao động có việc làm thời vụ và thường xuyên. Ngoài ra còn có 15 lao động đi nước ngoài, hàng trăm lao động đi làm xa quê cho thu nhập 2,5 - 3 tỷ đồng mỗi năm.

Cơ sở vật chất tiếp tục được cải tạo, xây mới, địa phương đã cải tạo, nâng cấp, xây mới được một số công trình như: bê tông hóa được 4,7km mương, nâng cấp làm mới một số tuyến đường giao thông, xây dựng thêm trạm biến áp và 1,3km đường cao thế, xây dựng, xây dựng trường mẫu giáo, 10 nhà văn hóa thôn… Tổng kinh phí xây dựng các công trình là 2 tỷ 236 triệu đồng, trong đó huy động từ nhân dân 537 triệu đồng.

Công tác giáo dục tiếp tục ổn định và phát triển. Cơ sở vật chất nhà trường được cải tạo.Do làm tốt công tác dân số, số lượng học sinh giảm dần, nhất là ở khối tiểu học. Từ năm học 2001 - 2002, Bộ Giáp dục - Đào tạo tiến hành thay sách giáo khoa ở tiểu học, đến năm học 2003 - 2004 thực hiện thay sách giáo khoa ở cấp trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh giỏi, học sinh tiên tiến ở các trường đạt 25%, tỷ lệ học sinh vượt cấp và tốt nghiệp đạt 97%. Nhiều năm, các trường đạt trường tiên tiến cấp huyện. Xã đã xây dựng được trung tâm học tập cộng đồng tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, tư vấn pháp lý cho hơn 2.000 lượt người.

Thực hiện Chỉ thị 06 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về củng cố hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo và có biện pháp nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác khám chữa bệnh. Hằng năm, trạm y tế khám, điều trị được 1.000 - 1.200 lượt người. Các hoạt động y tế khác cũng như: vệ sinh phòng dịch, tiêm chủng, chính sách dân số... luôn đảm bảo. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,05%.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới và làng văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Số làng đã khai trương xây dựng làng văn hóa tiếp tục tăng lên. Hàng năm, có 71% gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Công tác thông tin, tuyên truyền và thể dục, thể thao được duy trì và tiếp tục phát triển.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa và xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ và nhân dân quan tâm đúng mức. Các đối tượng chính sách và gia đình chính sách được địa phương quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ vươn lên trong cuộc sống. Đến năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo còn 20,6%.

Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hằng năm, địa phương đều hoàn thành tốt công tác tuyển quân, huấn luyện quân sự và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.Thọ Sơn đã thực hiện nghiêm túc Quyết định 138-QĐ/CP của Chính phủ về bảo vệ an ninh và phòng chống tội phạm, lực lượng công an thường xuyên được củng cố, điều tra, phát hiện, xử lý các vụ trộm cắp tài sản công dân, nhiều vụ vi phạm pháp luật, số vụ vi phạm pháp luật qua mỗi năm đều giảm.

Các cấp ủy Đảng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng bộ đã kết hợp đánh giá đảng viên với việc củng cố tổ chức Đảng, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi luận điệu chống phá của kẻ thù. Cuối nhiệm kỳ, tất cả 25 đồng chí đồng chí bí thư chi bộ được bồi dưỡng chương trình dành cho cấp ủy, 44 đồng chí đảng viên mới học xong chương trình lý luận phổ thông, bồi dưỡng 5 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh cho 97% đảng viên trong Đảng bộ. Các đồng chí lãnh đạo trong Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đều được học chương trình trung cấp chính trị, một số đồng chí học xong trung cấp quản lý Nhà nước.

Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ kết nạp được 41 đảng viên. Kết quả phân loại có 80% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Đảng bộ liên tục đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh.

Hoạt động của bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến. Thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, địa phương đã sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ đúng quy trình, phù hợp với năng lực cán bộ và bảo đảm tiêu chuẩn, do đó hiệu quả công việc đạt cao hơn.

Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn 2000 - 2005, kinh tế, xã hội ở Thọ Sơn có những bước tiến đáng kể, quốc phòng, anh ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Dẫu còn nhiều khó khăn, thách thức, kể cả khiếm khuyết cần khắc phục, nhưng kết quả trên đã tạo đà để địa phương tiếp tục phát triển.

3.  Tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2005 - 2010

Trong niềm vui chung của những thành tích đạt được nhiệm kỳ qua, tháng 6 năm 2005, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội lần thứ XXII tại hội trường xã. Có 130 đại biểu đại diện cho 225 đảng viên trong Đảng bộ về dự.

Đại hội Đảng bộ lần này diễn ra trong điều kiện tình hình kinh tế đất nước đang thu được những thắng lợi quan trọng. Sau gần 20 năm đổi mới, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ trước là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân thực hiện nhiệm vụ giai đoạn mới. Với tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, khách quan, Nghị quyết của Đại hội nêu rõ: Qua 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta còn gặp không ít khó khăn: thiên tai, dịch bệnh nhiều, chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động thiếu việc làm, giá vật tư sản xuất cao, giá nông sản thấp, khó tiêu thụ, một bộ phận nông dân đời sống còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo khá cao... Song với tinh thần nỗ lực, phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong xã, chúng ta đã đạt được những thành tích quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng.

Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm tới là: “Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, phát huy nội lực, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng, nội lực. Cải tạo môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư mọi thành phần kinh tế để tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, thúc đẩy quan hệ sản xuất mới phát triển. Ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ tạo sự đột phá trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Bảo đảm tăng trưởng kinh tế bề vững, bảo vệ môi trường, gắn với giải quyết tốt các vấn đề quốc phòng, an ninh, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể thật sự trong sạch, vững mạnh”.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, đồng chí Bùi Xuân Vui được bầu làm Bí thư, đồng chí Hoàng Long Tiến Phó Bí thư - Trực Đảng ủy xã đồng chí Lê Duy Quý Chủ tịch Ủy bân nhân dân xã làm Phó Bí thư;.

Sau Đại hội, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã dấy lên một tinh thần thi đua sôi nổi, quyết tâm thực hiện mục tiêu Đại hội đề ra. Đảng ủy, chính quyền đã tổ chức cuộc họp chuyên đề, đề ra chương trình hành động nhằm thực hiện nghị quyết Đại hội hiệu quả.

Nhiệm vụ trọng tâm là phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, bền vững, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ. Đẩy mạnh sản xuất vụ đông theo hướng sản xuất hàng hóa. Mạnh dạn đưa những giống có năng suất, có giá trị kinh tế cao vào sản xuất. Coi trọng việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất. Tích tụ ruộng đất để tạo điều kiện cho sản xuất lớn. Thực hiện cơ giới hóa thay dần cho sản xuất thủ công nhằm đưa năng suất lao động lên cao. Coi trọng chăn nuôi, lâm nghiệp nhằm phát triển hiệu quả gắn với bảo vệ môi trường.

Thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy Triệu Sơn, Đảng ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo các thôn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, làm cho nhân dân thấy rõ việc tích tụ ruộng đất, bước đầu là dồn điền đổi thửa là bước đi tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, phần đông nhân dân đều tự giác chấp hành. Cũng qua lần điều chỉnh ruộng đất này, địa phương quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015, dành đất cho khu vực dân cư, các công trình phúc lợi như: đất thổ cư, các công trình phúc lợi, giao thông... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Để đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn, Thọ Sơn đã có nhiều chính sách tiếp tục tạo điều kiện cho những gia đình có khả năng về lao động, vốn và ruộng đất phát triển mô hình gia trại, trang trại. Những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sản xuất ở địa phương không ngừng tăng lên. Tuy quy mô sản xuất đã có những thay đổi theo hình thức trang trại, tuy nhiên nhìn chung sản suất nông nghiệp vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, đầu ra khó khăn, phụ thuộc nhiều vào thị trường địa phương, chưa đủ sức vươn xa ra thị trường lớn, nhất là thị trường xuất khẩu. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Đảng bộ đã có những chủ trương tạo điều kiện cho các hộ có khả năng phát triển kinh tế nhận đất, vay vốn, đồng thời có chính sách hỗ trợ để tiếp tục hình thành các gia trại, trang trại và nâng cao hiệu quả kinh tế các trang trại đã có.

Nhìn chung sản xuất giai đoạn này luôn đan cài những thuận lợi và khó khăn. Đặc biệt là thời tiết diễn biến bất thường, dịch bệnh ở đàn gia cầm, gia súc liên tiếp xảy ra… Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Sơn đoàn kết một lòng vững bước vượt qua khó khăn, đưa quê hương ngày càng phát triển, trong đó nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm đạt 12%, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng, trong đó: nông nghiệp tăng 2%, công nghiệp, dịch vụ, xây dựng tăng 20%, thu nhập bình quân đầu người đạt 500 USD.

Cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, nâng dần tỉ trong công nghiệp, dịch vụ, việc làm. Đến năm 2009, tỉ trọng nông nghiệp còn 43%, công nghiệp, xây dựng: 33%; dịch vụ, thương mại: 24%.

Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, năng suất bình quân đạt 11,2 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 1.850 tấn, đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra. Giá trị thu nhập trên diện tích canh tác đạt 53 triệu đồng/ha, bình quân lương thực đầu người đạt 482kg/năm.

Thực hiện Nghị quyết 03-NQ/HU của Huyện ủy Triệu Sơn về phát triển kinh tế vùng đồi, Thọ Sơn tiếp tục chương trình phủ xanh đồi núi trọc, khai thác quỹ đất, khoanh nuôi, chăm sóc, bảo vệ rừng đạt hiệu quả. Duy trì vùng cây công nghiệp với 220ha mía nguyện liệu năng suất bình quân đạt 60 tấn/ha, mở rộng diện tích cây ăn quả tập trung với trên 10ha, cho thu nhập 35 triệu đồng/ha.

Điểm nổi bật trong chăn nuôi giai đoạn này là hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ chuyển dần sang sản xuất hàng hóa, bước đầu xây dựng mô hình chăn nuôi bán công nghiệp. Việc xây dựng 15 trang trại góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh hơn. Đây là những tín hiệu đáng mừng trong việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, cũng như từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn ở địa phương. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn chăn nuôi trên địa bàn gặp không ít khó khăn. Liên tiếp trong một thời gian ngắn xuất hiện các đại dịch như: cúm H5N1 ở gia cầm, dịch lở mồm long móng ở trâu bò, dịch tai xanh ở lợn... đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất của nhân dân. Nhờ làm tốt công tác phòng dịch, như: tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại, phát hiện và tổ chức dập dịch... nên chăn nuôi vẫn ổn định, có mặt phát triển. Đến năm 2010, đàn bò đạt 1.460 con, đàn lợn có 3.000 con, đàn gia cầm có 10.000 con. Nuôi cá, nuôi ong tiếp tục phát triển mạnh cho thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

Sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại tăng trưởng khá. Các ngành nghề, dịch vụ như: sửa chữa, cơ khí nhỏ, xay xát, dịch vụ làm đất, vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng, nghề mộc, nề, làm chổi đót ở xóm 12 tiếp tục phát triển. Giai đoạn này công ty TNHH An Phát chuyên làm đũa, công ty xăng dầu Nam Phương được thành lập và đi vào sản xuất mở ra hướng đi mới về ngành nghề, dịch vụ ở địa phương. Ngoài ra toàn xã có hàng trăm lao động đi làm việc ở nước ngoài và trong nước. Thu nhập, doanh thu từ ngành nghề, dịch vụ, thương mại trên địa bàn đạt trên 25 tỷ đồng mỗi năm.

Các công trình phúc lợi, dân sinh, như: đường giao thông liên xã trị giá 7 tỷ đồng từ chương trình 135, nâng cấp tuyến mương đập Ngô Công, đập Tràn xóm 12, xây dựng trường Mầm Non trị giá 1,4 tỷ đồng, xây dựng trường Trung học cơ sở 2 tỷ đồng, nâng cấp đường điện đảm bảo cho 97% số hộ được dùng điện. Tổng số vốn xây dựng đầu tư cho phát triển đạt 12,5 tỷ đồng.

Kinh tế phát triển, người dân ngày càng có điều kiện hưởng thụ các thành tựu khoa học, kỹ thuật phục vụ nhu cầu giải trí và hiểu biết của con người như: ti vi, xe máy, điện thoại, máy tính... Tuy nhiên, đây cũng là lúc các mặt trái của cơ chế thị trường tác động ngày càng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Những văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống thực dụng, những biến thái tiêu cực trong đời sống xã hội như: nạnăn uống tràn lan trong cưới xin, mê tí dị đoan... có điều kiện phát triển. Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa càng trở nên cấp thiết và được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo.

Trong thời gian này, Đảng bộ tiếp tục quan tâm chỉ đạo phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư. Các đơn vị đều đầu tư xây dựng nhà văn hóa, xã có sân thể thao, hàng năm tổ chức các cuộc thi của các đoàn thể, tham gia văn nghệ ở huyện... tạo nên sự hoạt động phong phú ở địa phương. Đặc biệt Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng làng văn hóa mới đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa mới, vừa mang bản sắc địa phương, vừa tiếp thu những yếu tố văn hóa thời đại. Đến năm 2010, có 15/16 làng khai trương xây dựng làng văn hóa. Trong đó có 2 làng được công nhận văn hóa cấp tỉnh, 10 làng đạt làng văn hóa cấp huyện. Số hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa chiếm tỷ lệ 72%, số hộ đạt gia đình thể thao chiếm 30% số hộ trong xã.

Đây là giai đoạn giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với việc tiến hành thay sách giáo khoa, Bộ Giáo dục - Đào tạo chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt, chưa bao giờ thiết bị dạy học được trang bị đầy đủ như giai đoạn này. Nhờ đó, chất lượng giáo dục của các trường được nâng lên một bước. Đến năm học 2007 - 2008, hưởng ứng cuộc vận động Hai không của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong đó có nội dung nghiêm túc trong thi cử, đánh giá học sinh và chống bệnh thành tích trong giáo dục, qua đó chất lượng thật từng bước được nâng lên. Giai đoạn này, Trường Tiểu học có 22 lớp 850 học sinh, Trường Trung học cơ sở có 13 lớp 417 học sinh. Năm học 2008 - 2009, các nhà trường đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, cảnh quan môi trường từng bước được tôn tạo. Nhiều năm cả 3 trường trong xã: Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đạt trường tiên tiếp cấp huyện, được Chủ tịch Ủy bân nhân dân huyện tặng giấy khen.

Hoạt động của trạm y tế xã ngày càng đi vào nền nếp đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trong 5 năm (2005 – 2010) đã khám, điều trị cho hơn 6.000 lượt người. Công tác tiêm phòng cho trẻ luôn đạt kết quả cao, không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra. Đội ngũ cán bộ y tế tích cực tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã xây dựng xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, thực hiện pháp lệnh dân số, an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng dân quân, quân dự bị và lực lượng công an. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” theo Nghị quyết của Chính phủ và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm theo Quyết định 138-QĐ/Ttg của Thủ tướng Chính phủ. Đảng bộ luôn chăm lo xây dựng lực lượng có lập trường tư tưởng và bản lĩnh cách mạng vững vàng, sẵn sàng chiến đấu khi xảy ra chiến tranh, đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của kẻ địch. Đồng thời quản lý tốt quân dự bị, thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ. Hằng năm đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giao quân.

Lực lượng công an luôn được củng cố và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi năm công an xã giải quyết hàng chục vụ việc theo đúng quy định và gửi hồ sơ lên cấp trên giải quyết những vụ việc vượt quá thẩm quyền, ngăn ngừa kịp thời không để vụ việc lớn phát sinh trên địa bàn. Thực hiện Nghị quyết 32/CP của Chính phủ, Nghị định 146/BCA của Bộ Công An và Hướng dẫn 144 của Sở Công an Thanh Hóa về kiềm chế tai nạn giao thông, Ủy ban nhân dân xã đã thành lập tổ kiểm tra việc thực hiện luật giao thông trên địa bàn xã, đặc biệt là trên tuyến đường liên xã, góp phần làm giảm tai nạn giao thông trên địa bàn và làm cho nhân dân ý thức hơn trong việc chấp hành Luật Giao thông. Trên cơ sở Chỉ thị số 10/CT-CTUB của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và Đề án 375 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, địa phương đã thành lập được các tổ an ninh xã hội và tổ an ninh trật tự ở các thôn, góp phần giữ gìn trật tự xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Hội đồng nhân dân đã có nhiều đổi mới trong việc tổ chức các kỳ họp và giám sát thực hiện trong các hoạt động quản lý kinh tế, đất đai, hoạt động của các nhà trường, trạm y tế, làng văn hóa, công tác quản lý của Ủy ban nhân dân, trả lời, giải quyết những ý kiến của cử tri có hiệu quả.

Qua việc sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chuyên viên và thực hiện cải cách hành chính ở cơ sở, hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày càng hiệu quả hơn. Trong công tác quản lý, Ủy ban nhân dân xã thực hiện cải cách hành chính, xây dựng quy chế, tác phong làm việc của đội ngũ chuyên viên, cán bộ nhằm hướng tới mục tiêu chuyên nghiệp, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hằng năm, địa phương đều hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh đối với Nhà nước, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đạt hiệu quả. Quy chế hoạt động của Ủy ban nhân dân, Quy chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực hiện tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tăng cường.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở địa phương hoạt động ngày càng hiệu quả. Đây là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện các phong trào ở địa phương như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ nhà dột nát cho người nghèo, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng xã hội học tập, gia đình kinh doanh và sản xuất giỏi... Thông qua đại diện là các đại biểu Hội đồng nhân dân, phát huy tinh thần làm chủ của các hội viên các tổ chức quần chúng, nhờ đó mà phát huy được sức mạnh của cộng đồng trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

Công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho đảng viên được Đảng bộ đặc biệt coi trọng. Đây là giai đoạn các thế lực phản động vẫn điên cuồng chống phá cách mạng nước ta. Thông qua các luồng thông tin ngoài luồng xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng ngày càng nhiều. Qua học tập các nghị quyết của Đảng, các đồng chí đảng viên trong Đảng bộ ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng bộ tiến hành thực hiện cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 06/CT-TW của Bộ Chính trị. Cũng trong thời gian này, Đảng bộ triển khai học tập chuyên đề nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Trong các đợt học tập, Ban Chấp hành Đảng bộ đã chỉ đạo các chi bộ tổ chức cho 100% đảng viên viết đăng ký làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những việc làm cụ thể. Ngoài ra còn tổ chức cho đảng viên, nhân dân tham gia cuộc thi tìm hiểu, tổ chức và tham gia các cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng được nâng lên rõ rệt. Nhiều năm liên tục Đảng bộ đạt trong sạch, vững mạnh.

Nhằm từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch cán bộ, có kế hoạch tạo nguồn, bồi dưỡng bổ sung hàng năm. Giai đoạn này, Đảng ủy đã cử 6 đồng chí cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý và trình độ chính trị. Thực hiện đề án xây dựng chi bộ vững mạnh, chất lượng cơ sở Đảng từng bước được nâng lên. Năm 2005 có 12 chi bộ, đến năm 2010 tăng lên 18 chi bộ, 80% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 21 đảng viên. Việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đã góp phần quan trọng từng bước xây dựng quê hương Thọ Sơn ngày càng giàu mạnh.

III. TIẾN HÀNH THỰC HIỆN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 -2020)

1.                       Thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, ngày 9 tháng 4 năm 2010, Đảng bộ Thọ Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2010 - 2015.

Đại hội đã tiến hành kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ 2005 - 2010, đề ra phương hướng hoạt động nhiệm kỳ mới và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Bùi Xuân Vui được Đảng bộ bầu lại làm Bí thư, đồng chí Lê Duy Quý, Phó Bí thư Trực Đảng ủy xã đồng chí Lê Ngọc Quế, Chủ tịch UBND xã làm Phó Bí thư.

Đại hội đã nhiệt liệt biểu dương thành tích đạt được thời gian qua, kêu gọi cán bộ và nhân dân trong xã phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, đoàn kết xây dựng quê hương, hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trên quê hương Thọ Sơn, trước mắt là xây dựng xã nông thôn mới. Đồng thời đề ra phương hướng chung của nhiệm kỳ mới là: “Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, tận dụng thời cơ vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển mọi thành phần kinh tế, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, tạo bước đột phá chất lượng, hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Đảm bảo phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững hơn, gắn củng cố quốc phòng, an ninh với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh”.

Với sức mạnh của một vùng quê có truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước và cách mạng, lại được lãnh đạo bởi một tổ chức đảng đã kinh qua nhiều giai đoạn cách mạng, luôn là một Đảng bộtrong sạch vững mạnh, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng, Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kì XXIV đã lãnh đạo nhân dân từng bước vượt qua khó khăn, thử thách và thu được những kết quả rất đáng tự hào. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa - xã hội ngày càng phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và lớn mạnh ngang tầm nhiệm vụ mới. Tuy còn bộn bề gian khó, nhưng những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong xã đạt được trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã tỏ rõ bản chất cách mạng kiên trung, sự đoàn kết vượt qua khó khăn của cán bộ và nhân dân xã nhà.

Một nhiệm vụ trong tâm, bao trùm giai đoạn này là tiến hành xây dựng nông thôn mới. Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Quyết định 1342/QĐ-UBND huyện Triệu Sơn, năm 2011, Thọ Sơn đã xây dựng đề án “Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 - 2020” nhằm phát triển một cách đồng bộ, tích cực, thay đổi một cách căn bản bộ mặt của nông nghiệp, nông thôn cũng như quan điểm nhận thức của người nông dân trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, sự vào cuộc tích cực của hệ thống chính trị, đề án xây dựng nông thôn mới của xã đã thu được kết quả bước đầu đến cuối năm 2015, xã đã hoàn thành được 9/19 tiêu chí.

Qua thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới cho thấy, mặc dù đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng tình hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn của địa phương đã bộc lộ những vấn đề khó khăn của một xã miền núi cần được giải quyết: kiến trúc nông thôn đang phát triển tự phát và thiếu quy hoạch hoàn chỉnh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống; lao động nông thôn còn thiếu công ăn việc làm và thu nhập chưa ổn định; trật tự an ninh trên địa bàn chưa đáp ứng trước nhu cầu đổi mới kinh tế và xã hội... Thực tế ấy đang đòi hỏi phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương đi vào thực chất, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Bám sát Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, Ban Chấp hành đã đoàn kết tạo nên sức mạnh tập thể, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, sự phối hợp, hoạt động hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương quyết tâm hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra. Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện phê bình và tự phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) tăng cường sức chiến đấu của tổ chức đảng sánh ngang với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới; tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp; đổi mới hoạt động của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã dịch vụ điện, nâng cao hiệu quả điều hành của chính quyền, tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ; áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sảnxuất, đẩy mạnh đưa cơ giới hóa, điện khí hóa vào sản xuất.

Mặc dù giai đoạn này sản xuất gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới, trong nước lạm phát tăng cao, đầu ra nông sản, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh trên đàn gia cầm, gia súc, thời tiết diễn biết bất lợi, nhưng kinh tế địa phương vẫn phát triển. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 13,4%, (vượt chỉ tiêu đề ra 1%). Trong đó: nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 9,8% (vượt chỉ tiêu 1,8%); công nghiệp, xây dựng tăng 14,6% (vượt chỉ tiêu 0,9%); dịch vụ tăng 16,8% (vượt chỉ tiêu 1,6%).

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tính đến năm 2015, tỷ lệ nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 36,5%, công nghiệp, xây dựng chiếm 30,6%, dịch vụ, thương mại chiếm 32,9%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 13,25 triệu đồng/năm, đạt mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra.

Trong sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Diện tích đạt gieo trồng đạt 353ha, lúa lai có giá trị kinh tế cao chiếm 90%, năng suất bình quân đạt 5,6 - 6 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 2.119 tấn.

Về sản xuất mía nguyên liệu, sau thời gian phát triển mạnh, giai đoạn này có xu hướng giảm dần vì giá đường xuống thấp do phải cạnh tranh với đường nhập ngoại và do lực lượng lao động trong xã chuyển dần sang làm công nhân tại các xí nghiệp trên địa bàn huyện, tỉnh. Cấp ủy, chính quyền đã chủ động chuyển dần diện tích sang trồng các loại cây khác như: sắn nguyên liệu, keo, cao su, cây ăn quả...

Nhờ có nhiều biện pháp đồng bộ nên sản xuất ở địa phương phát triển khá, tính đến năm 2015, giá trị kinh tế trên mỗi héc ta gieo trồng đạt 63,8 triệu đồng.

Chăn nuôi tiếp tục có sự phát triển theo hướng thị trường, mở rộng sản xuất theo mô hình gia trại, trang trại. Đến năm 2015, toàn xã đã xây dựng được 13 gia trại (1 gia trại chăn nuôi bò, 4 gia trại chăn nuôi lợn, 8 gia trại chăn nuôi gà) cho giá trị hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Đàn trâu bò có trên 1.110 con, đàn lợn có 1.372 con, đàn gia súc gần 2.000 con. Giá trị từ chăn nuôi ước chiếm 35%, giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt kế hoạch Đại hội đề ra.

Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng được quan tâm và thu được kết quả khá, góp phần bảo vệ sinh thái và tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Diện tích đất rừng trồng cây theo dự án WB3 đạt 171,01ha, diện tích trồng keo đạt 250ha, ngoài ra còn trồng các loại cây khác phủ xanh đất trống, đồi trọc. Trên địa bàn xã đã có 2 cơ sở chế biến cây lâm nghiệp góp phần nâng cao giá trị kinh tế đồi rừng.

Công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp có bước tăng trưởng khá theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Toàn xã có 130 cơ sở sản xuất công nghiệp, tăng 13% so với giai đoạn trước. Trong đó có: 15 cơ sở sản xuất đồ mộc, 6 cơ sở sản xuất gạch không nung, 26 cơ sở và 1 hợp tác xã sản xuất chổi đót, 23 cơ sở hàn, nghiền thức ăn gia súc... Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 102 tỷ đồng.

Thương mại, dịch vụ trên địa bàn phát triển mạnh. Toàn xã có 300 cơ sở, tăng 2,9 lần so với năm 2010. Trên địa bàn chợ và khu trung tâm xã nhiều hộ có hàng hóa lên đến hàng tỷ đồng. Toàn xã có 14 ô tô làm dịch vụ vận tải, góp phần lưu thông hàng hóa và mang lại thu nhập cao cho các hộ kinh doanh. Tổng mức hàng hóa bán lẻ năm 2015 lên đến 22,142 tỷ đồng.

Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, các công trình phục vụ sản xuất, phúc lợi xã hội thường xuyên được cải tạo và xây mới. Bằng nguồn vốn hỗ trợ của cấp trên, ngân sách xã và đóng góp của nhân dân, 5 năm qua (2010 – 2015) Thọ Sơn đã  xây dựng các công trình như: xây dựng chợ 2,3 tỷ đồng, sửa chữa nâng cấp trường học 2,7 tỷ đồng, giao thông nông thôn 3 tỷ đồng, các công trình khác 2,7 tỷ đồng, với tổng số tiền 10,2 tỷ đồng. Đây là giai đoạn Thọ Sơn tập trung xây dựng nông thôn mới, mọi nguồn lực xã hội đều được phát huy, nhờ thế đạt được nhiều kết quả khả quan, tổng vốn đầu tư cho đầu tư phát triển đạt 76,25 tỷ đồng.

Công tác chính sách, an sinh xã hội được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, những hộ chính sách, hộ nghèo được chăm lo, giúp đỡ, đảm bảo đầy đủ các chế độ đãi ngộ. Đến năm 2015, số hộ nghèo trong xã còn 16 %.

Văn hóa, xã hội tiếp tục có bước phát triển mạnh cả chiều rộng và chiều sâu. Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ đổi mới”. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đang chuyển dần về chất. Có thêm 2 trường học khai trương xây dựng cơ quan văn hóa. Hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, văn hóa xã hội ngày càng phát triển. Số người tham gia các hoạt động như: câu lạc bộ dưỡng sinh, cầu lông, bóng chuyền... ngày càng đông. Đoàn Thanh niên tổ chức cho thiếu niên vui chơi trại hè. Tỷ lệ gia đình văn hóa hàng năm đạt trên 75%.Thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội được thực hiện nghiêm túc và có chuyển biến đáng kể. Đài truyền thanh hoạt động hiệu quả, trung bình mỗi năm phát được 350 tin góp phần nâng cao dân trí, văn hóa, phổ chiến, tuyên truyền các chủ trường, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đến nhân dân

Giai đoạn này, cả 3 trường Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở đầu triển khai đề án xây dựng trường chuẩn Quốc gia nên cơ sở vật chất các trường được địa phương quan tâm cải tạo. Trường Mầm non đã tổ chức cho các cháu ăn bán trú, Trường Trung học cơ sở được công nhận chuẩn Quốc gia, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng bằng khen. Chất lượng học tập của các trường không ngừng được nâng lên. Năm học 2012 – 2013, đội học sinh giỏi trường Trung học cơ sở vươn lên xếp tứ 3 toàn huyện, có 10 học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó có 1 cháu là học sinh duy nhất của huyện Triệu Sơn đạt giải nhất môn văn hóa cấp tỉnh. Trung tâm giáo dục cộng đồng hoạt động hiệu quả, mỗi năm tổ chức chuyển giao khoa học kỹ thuật được hơn 700 lượt người.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, trung bình mỗi năm trạm y tế khám và điều trị cho hơn 1.000 lượt người. Triển khai hiệu quả y tế dự phòng, tiêm phòng cho trẻ trong độ tuổi đạt 99%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 17%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,85%. Công tác vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, ý thức của người dân từng bước được nâng lên.

Dù nước ta đang trong điều kiện hòa bình nhưng tình hình tranh chấp lãnh thổ, nhất là trên Biển Đông diễn ra ngày càng phức tạp. Ngày 1 - 5 - 2014, Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan HD-981 trên vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam[47]. Trước tình hình trên, Huyện ủy đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng ủy, chính quyền tăng cường củng cố lực lượng dân quân, quân nhân dự bị thường xuyên luyện tập và sẵn sàng chiến đấu cao. Trung bình mỗi năm có 11 - 12 thanh niên lên đường nhập ngũ. Đồng thời, tập trung thực hiện Nghị định 32 của Chính phủ về giảm thiểu tai nạn giao thông, Nghị định 09/CP về chương trình quốc gia phòng chống tệ nạn xã hội. Lực lượng công an thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương. Tổ chức các đợt cao điểm trấn áp tội phạm gắn với phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng đi vào hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.

Thời gian này, Đảng bộ tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, quán triệt trong cán bộ, đảng viên Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Triệu Sơn lần thứ XVI. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, “Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị”... Trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Trọng tâm là khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm, nêu cao tinh thần đấu tranh, tự phê và phê bình, làm rõ trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong việc thực hiệm nhiệm vụ được giao. Các đồng chí cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các đồng chí giữ các chức vụ trong Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể viết bài thu hoạch, thực hiện việc tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, làm chuyển biến tích cực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm, hiệu quả công việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Đảng bộ tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạtđộng của chi bộ theo Chỉ thị số 10-TC/TW của Ban Bí thư. Thực hiện Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 05 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ủy thực hiện tốt công tác quy hoạch nguồn A1, A2 và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho nhiệm kỳ 2015 - 2020. Công tác kiểm ta, phân loại được thực hiện nghiêm túc. Năm năm liên tục, Đảng bộ Thọ Sơn được công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, được cấp trên khen thưởng.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân luôn đổi mới phương thức hoạt động, phù hợp, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao chất lượng hoạt động các kỳ họp, thực hiện tốt chức năng giám sát. Ủy ban nhân dân xã tiếp tục đổi mới công tác quản lý, điều hành, đảm bảo dân chủ, kỷ cương, đồng bộ, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, sâu sát cơ sở. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong điều hành công việc. Triển khai có hiệu quả pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,nâng cao hiệu quả quản lý, tạo môi trường đầu tư, sản xuất của doanh nghiệp và nhân dân. Với sự đoàn kết cao, bằng sự năng động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, sự đồng thuận của nhân dân, chính quyền đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng đưa quê hương Thọ Sơn ngày càng phát triển.

Công tác dân vận và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể ngày càng được đổi mới, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố. Qua các phong trào như: dân vận khéo, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, chung tay xây dựng nông thôn mới, xóa bỏ nhà tranh tre... đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Nhìn lại chặng đường 20 năm thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy, dẫu còn khó khăn, gian khổ, nhưng những gì mà cán bộ nhân dân làm được thật đáng tự hào. Đó là minh chứng sinh động cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên quê hương Thọ Sơn.

2. Một số kết quả trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2015 - 2020

Cán bộ và nhân dân Thọ Sơn bước vào giai đoạn kết thúc mục tiêu hoàn thành xây dựng xã nông thôn mới bằng một sự kiện quan trọng. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Sơn, ngày  tháng ... năm 2015, Đảng bộ Thọ Sơn long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XV.

Đại hội đánh giá cao những thành tựu mà cán bộ và nhân dân trong xã đạt được trong thời gian qua, coi đó là tiền đề quan trọng để địa phương tiếp tục vững bước đi lên trong thời gian tới, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới.

Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, đồng chí Hà Long Tiến được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Duy Quý được bầu làm Phó Bí thư - Trực Đảng, đồng chí Lê Ngọc Quế được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy bân nhân dân xã.

Đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ trước, Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ: 5 năm qua, Đảng bộ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV trong điều kiện có nhiều thuận lợi, đó là: tình hình kinh tế - xã hội địa phương ổn định, nhiều cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đi vào cuộc sống, các chính sách an sinh xã hội từng bước đáp ứng yêu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới. Đặc biệt có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, các ban ngành, đoàn thể của huyện Triệu Sơn. Sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ nhân dân các dân tộc trong xã hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trong nhiệm kỳ qua tạo tạo điều kiện để Thọ Sơn phát triển mạnh trong thời gian ngắn làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân.

Bên cạnh thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ như: tình hình chính trị trên thế giới và trong khu vực có những diễn biến phức tạp, việc Trung Quốc đe dọa chủ quyền, an toàn hàng hải ở Biển Đông, san lấp, quân sự hóa một số đảo chìm của Việt Nam bị chúng chiếm đóng trái phép đã đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, kinh tế thế giới chưa thoát khỏi khủng hoảng, khí hậu biến đổi phức tạp, tác động của mặt trái cơ chế thị trường đến đời sống xã hội... Thọ Sơn là một xã miền núi xa trung tâm huyện, xuất phát điểm nền kinh tế thấp, thuần nông, cơ sở vật chất hạ tầng chưa phát triển, mức sống của nhân dân chưa cao....

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, sự năng động, sáng tạo của chính quyền, sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể với những chủ trương, giải pháp chỉ đạo hiệu quả, động viên sức mạnh toàn Đảng bộ và các dân tộc xã nhà đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội Đại hội Đảng bộ đề ra. Kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao; an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.

Đại hội đã rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới. Phương hướng chung của Đại hội nêu rõ: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của chính quyền, hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững; chú trọng chất lượng, hiệu quả và sực cạnh tranh của hàng hóa, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để đầu tư, phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống người lao động, nâng cao chật lượng các hoạt động văn hóa – xã hội theo hướng xã hội hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường công tác quốc phòng –  an ninh; giữ vừng an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa phương. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh. 

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, cán bộ và nhân dân trong xã vượt mọi khó khăn thách thức, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Với một vùng quê giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, với một Đảng bộ đoàn kết, giàu sức chiến đấu, đội ngũ cán bộ trẻ, năng lực và nhiệt huyết, nhân dân cần cù, sáng tạo, Thọ Sơn đang từng bước hoàn thành mục tiêu Đại hội đề ra, đưa quê hương ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một nhiệm vụ trọng tâm được cả hệ thống chính trị, mọi tầng lớp xã hội tập trung trí lực, vật lực, tài lực, nhân lực để thực hiện là hoàn thành xây dựng nông thôn mới.

Là địa phương có hạ tầng còn nhiều khó khăn, giao thông liên hương dài, qua nhiều địa hình phức tạp, kinh tế nhân dân còn thấp nên việc huy động nguồn lực cho phát triển gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Thọ Sơn cũng những thuận lợi cơ bản: văn hóa xã hội có nền tảng vững chắc từ những năm trước, kinh tế, xã hội đang trên đà phát triển, hệ thống chính trị vững mạnh, đội ngũ lãnh nhiệt tình, năng động, dám nghĩ, dám làm, nhân dân cần cù, có tinh thần cách mạng… tạo điều kiện để Thọ Sơn hoàn thành nhiệm vụ chính trị, cũng như xây dựng nông thôn mới thành công trên địa bàn xã.

 Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, sự năng động, sáng tạo của chính quyền, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, được nhân dân hưởng ứng, đồng thuận, nhiều gia đình đã đóng góp tiền, công, hiến đất để quy hoạch đường giao thông, xây dựng các công trình văn hoá, chỉnh trang nhà cửa phấn đấu cuối năm 2020, Thọ Sơn về đích nông thôn mới.

Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Thọ Sơn đã có những bước đi vững chắc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh, xây dựng tổ chức chính trị vững mạnh, cụ thể:

Về kinh tế:

Sản xuất nông nghiệp: Mặc dù chịu tác động bất lợi của tình hình thời tiết, rét đậm, mưa lụt, ngập úng... nhưng do sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, sự chủ động điều hành, xử lý linh hoạt của UBND đã chỉ đạo nhân dân đã thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật, triển khai có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu giống, thời vụ. Do đó, sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển, năm 2018 diện tích gieo trồng cả 2 vụ đạt 332ha; năng suất 48 - 50 tạ/ha; sản lượng 1.600 tấn. Đáng chú ý là diện tích sản xuất nông nghiệp liên tục giảm qua mỗi năm do chuyển đổi mô hình kinh tế, năm 2017 giảm 23,7ha so với năm 2016, năm 2018 giảm 6,3ha so với năm 2017. Dù diện tích giảm nhưng tổng sản lượng lương thực cũng như giá trị hàng hóa vẫn giữ ổn định và có mặt được nâng lên.

Sản xuất vụ đông vẫn gặp khó khăn do hiệu quả kinh tế thấp, trong khi số lao động đi làm công nhân, làm thợ, dịch vụ ngày càng nhiều, nên diện tích dao động 60 -70ha. Diện tích mía mỗi năm trồng được 62-72ha, sản lượng đạt3.800-4.200 tấn.                                                                                                                                        

 Trong chăn nuôi: Do chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền và phòng chống dịch bệnh cho nên dù giá cả không ổn định, song cơ bản tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng lên. Đến năm 2018, đàn trâu bò có 1.112 con, đàn lợn 1.632 con, đàn gia cầm đạt 22.500 con, tăng 2.200 con so với năm 2017.

Việc phát triển kinh tế đồi rừng được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ngoài việc phát triển các trang trại, bảo vệ rừng tái sinh, qua các năm 2016 – 2018, địa phương trồng mới được hơn 50 ha rừng, riêng năm 2017 trồng được 22 ha. Diện tích sắn 52ha, sản lượng đạt 1.040 tấn, diện tích cây ăn quả 52ha, diện tích cao su 24ha. Trung bình thu nhập từ rừng mỗi năm đạt 1,5 tỷ đồng.

  Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá. Trong điều kiện khó khăn nhưng vẫn duy trì và phát triển cả về quy mô cũng như hiệu quả kinh tế. Đến năm 2018, trên địa bàn có 11 doanh nghiệp, 378 cơ sở hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó có 105 cơ sở hoạt động công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, 6 cơ sở xây dựng, 14 cơ sở vận tải, 209 cơ sở thương mại, 44 cơ sở dịch vụ. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ, thương nghiệp năm 2018 đạt 87 tỷ đồng.

Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng được cấp ủy, chính quyền quan tâm thực hiện. Đây đang là thời điểm bản lề để Thọ Sơn hoàn thành mục tiêu xây dựng xã nông thôn mới vào năm 2020. Tổng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản năm 2017 đạt 6.663 triệu đồng, đạt 308%, năm 2018 đạt 4.969 triệu đồng. Đây đang là giai đoạn địa phương nỗ lực hoàn thành xây dựng nông thông thôn mới nên hàng loạt các công trình được cải tạo và xây mới như: sửa chữa trường tiểu học, xây dựng nhà làm việc và sửa chữa trạm y tế, vận động nhân dân đóng góp bê tông hóa 2,2 km đường giao thông, hệ thốngđường liên thôn, giao thông nội đồng, tu sửa các hạng mục... với giá trị hàng chục tỷ đồng.

Văn hóa - xã hội:

Hoạt động thông tin tuyên truyền – thể dục thể thao có sự khởi sắc. Trong công tác lãnh đạo, Đảng bộ tập trung tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các làng đều có đội văn nghệ tham gia giao lưu, hội diễn ở xã và huyện. Phong trào thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Địa phương đã tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao chào mừng các ngày lễ, ngày kỷ niệm của đất nước, tích cực tuyên truyền mọitầng lớp nhân dân, chung tay xây dựng nông thôn mới.Xã đã tổ chức giải bóng đá phong trào nhân Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 – 9, tham gia và đạt giải cao trong cuộc thi cấp huyện, với 3 giải nhất, 2 giải nhì về điền kinh. Đặc biệt đạt vô địch môn bóng chuyền trong giải bóng chuyền do Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn tổ chức. Duy trì hoạt động của các làng văn hoá theo quy ước và hương ước, tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 85%, thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.

Trong những năm qua, các trường trong xã tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệphóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Chất lượng giáo dục của các trường luôn ổn định và có bước phát triển. Trường Mầm non đã phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia, số cháu đạt tốt, khá chiếm 70,7%. Trường Tiểu học vẫn duy trì tốt chất lượng dạy và học, số học sinh được khen đạt 75,9%. Trường Trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh đậu vào trường PTTH ngày càng cao, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 100%. Các trường giữ vững danh hiệu trường chuẩn Quốc gia.

Hoạt động y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình được duy trì tốt. Trạm y tế mỗi  năm khám và điều trị cho trên 2.000 lượt bệnh nhân. Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng vác xin và uống vitamina đạt 98 - 99%. Qua các đợt kiểm tra để công nhận Trạm y tế được đánh giá là hoàn thành tốt đạt số điểm cao. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,9%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi còn 12,5%.

Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm làm tốt các hoạt động chính sách người có công, cấp phát trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội đầy đủ và kịp thời, đẩy mạnh tuyên truyền nhân dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện đạt 80%. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, các hộ già cả neođơn, các gia đình khó khăn với số tiền mỗi năm trên 22 triệu đồng. Lập hồ sơ đề nghị cấp trên công nhận và thực hiện giải ngân cho 19 gia đình người có công theo Quyết định 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 580 triệu đồng. Địa phương đã tạo điều kiện cho 56 người đi lao động ở nước ngoài tạo nguồn thu đáng kể để các hộ đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 6,44%, hộ cận là 5,76%.

Quốc phòng - an ninh của địa phương được giữ vững. Hằng năm Thọ Sơn luôn hoàn thành nghĩa vụ giao quân với 7 – 12 thanh niên lên đường nhập ngũ. Lực lượng dân quân, quân nhân dự bị tham gia luyện tập nghiêm túc. Tổ chức thành công cuộc diễn tập chiến đấu phòng thủ theo kế hoạch. Công tác xây dựng cụm xã an toàn, làm chủ tiếp tục được tăng cường, duy trì nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu, đề cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, không để để lúng túng, bất ngờ.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được quan tâm thường xuyên và phát huy hiệu quả ở các địa bàn dân cư. Địa phương tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 10 và đề án 375 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, duy trì có hiệu quả tổ an ninh trật tự, tổ liên gia tự quản.

Một nhiệm vụ được coi là then chốt, có tính quyết định đến thắng lợi của mọi phong trào cách mạng của Thọ Sơn là xây dựng tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Ban Chấp hành Đảng bộ hết sức chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ và nhândân. Tổ chức học tập, triển khaikịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương (khóa XII) đến toàn thể cán bộ, đảng viên. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng bộ đã chủ trương quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 cùng với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnhhọc tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhận thức chính trị, tư tưởng, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Trong tổ chức thực hiện, cấp ủy, chính quyền coi trọng phương châm:nói đi đôi với làm, kết hợp chống và xây, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao. Qua kiểm tra đã kịp thời bổ sung, uốn nắn và chấn chỉnh một số đảng viên, chi bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và Điều lệ Đảng.

Công tác xây dựng chính quyền có những bước tiến vững chắc. Hội đồng nhân dân hoạt động ngày càng hiệu quả trong việc tiếp xúc cử tri, tổ chức các kỳ họp, ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, giám sát tổ chức thực hiện của các tổ chức kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong địa phương.

Ủy ban nhân dân đã điều hành, đẩy mạnh việc thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn; thực hiện tốt các giải pháp tiết kiệm chi tiêu, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân chủ cơ sở, làm tốt công tác quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực..

Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều phong trào và hình thức hoạt động đa dạng để vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thực hiện tốt vai trò đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội và xây dựng chính quyền theo Quyết định 217, 218 QĐ/TW, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân. Là trung tâm tập hợp các tổ chức đoàn thể góp phần xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, tổ chức thực hiện có hiệu quả ngày vì người nghèo, ngày đại đoàn kết toàn dân tộc; phối hợp với các ngành, đơn vị tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như: hỗ trợ, giúp đỡ các gia đình nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, tham gia ủng hộ đồng bào miền Trung bị hạn hán, lũ lụt.

Một nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là xây dựng thành công xã nông thôn mới. Tính đến cuối năm 2018, địa phương đã đạt 13/19 tiêu chí. Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân trong xã còn hết sức nặng nề. Đảng bộ xác định: xây dựng nông thôn mớiphải trở thành phong trào rộng khắp trong cả . Dân chủ cơ sở được nâng cao hơn, ý thức và trách nhiệm làm chủ của người dân từng bước được nâng lên. Qua đó đã phát huy được nhiều cách làm sáng tạo góp phần huy động  nguồn lực đóng góp cho xây dựng nông thôn mớiKết quả bước đầu của phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương khẳng định: Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đang trở thành hiện thực sinh động trên quê hương Thọ Sơn. Là tiền đề quan trọng để cán bộ và nhân dân trong xã đưa quê hương phát triển cao hơn trên chặng đường cách mạng mới.

Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, kinh tế - xã hội ở địa phương tiếp tục phát triển và thu được kết quả rất đáng tự hào. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn được thể hiện sinh động trong phát triển kinh tế - xã hội, bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 20 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn đã thu được những kết quả rất đáng tự hào. Trong quá trình thực hiện, Đảng bộ và nhân dân đã gặp không ít khó khăn, thách thức. Là một xã miền núi, mức sống của nhân dân còn thấp, bằng nội lực của mình, được sự giúp đỡ của cấp trên, sản xuất ở Thọ Sơntừng bước phát triển. Sản lượng lương thực ở địa phương không ngừng tăng lên, cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng, phong phú, giá trị kinh tế ngày càng cao. Ngành nghề, dịch vụ, thương mại phát triển phá thế độc canh cây lúa, làm đa dạng nguồn thu của địa phương. Trong phát triển kinh tế, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự xuất hiện của điện, cơ khí đang dần thay thế lao động thủ công cho thấy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đang trên đà khởi sắc. Văn hóa - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ cách mạng của địa phương. Bộ mặt nông thôn đổi mới từng ngày, cuộc sống ấm no, hạnh phúc đang hiển hiện sinh động trên mảnh đất Thọ Sơn giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn dài, nhưng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn chắc chắn sẽ vượt qua mọi khó khăn, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng và văn minh.

KẾT LUẬN 

Thọ Sơn là một xã miền núi, nằm ở phía tây của huyện Triệu Sơn. Xưa kia, đây là vùng rừng, cây cối rậm rạp, nên không mấy thuận lợi cho sản xuất. Vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những cư dân đầu tiên đã tìm đến đây lập nghiệp, khai phá rừng hoang, dựng nhà, dựng cửa, tạo nên nương sắn, ruộng lúa. Trong quá trình sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã đủ loại, cộng đồng dân cư từng bước được hình thành, đồng thời tạo nên những giá trị văn hóa, tinh thần phong phú, góp phần tạo dựng nên cốt cách của người Thọ Sơn hôm nay.

Đó là nền tảng, cội nguồn, để khi gặp lí tưởng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Thọ Sơn nguyện một lòng theo Đảng, đứng lên xóa bỏ xiềng gông, đòi lại quyền sống, quyền làm người, góp phần cùng nhân dân cả nước lật đổ chế độ thực dân phong kiến trong Cách mạng tháng Tám, xây dựng nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cách mạng tháng Tám thành công, cùng với cả nước những người Cộng sản và nhân dân Thọ Sơn đứng trước muôn vàn khó khăn. Vận mệnh Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài lăm le lật đổ chính quyền non trẻ. Nạn đói ngày càng nghiêm trọng; văn hóa, xã hội hết sức lạc hậu; dân trí vô cùng thấp kém... Chính quyền cách mạng vừa bảo vệ thành quả cách mạng, vừa tiến hành diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, đẩy mạnh thi đua sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã phải công nhận nền độc lập của ba nước Đông Dương, nhưng ngay sau đó, nước ta lại phải đương đầu với đế quốc Mỹ, một thế lực hùng mạnh nhất của chủ nghĩa đế quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược do Đảng đề ra: góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Không sợ gian khổ hy sinh, cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân cả nước, nhân dân Thọ Sơn vừa đẩy mạnh sản xuất chi viện cho chiến trường miền Nam, vừa anh dũng giáng trả không quân Mỹ khi chúng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong những ngày tháng năm ấy nhân dân Thọ Sơn vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Những hạt gạo nghĩa tình từ đồng đất Thọ Sơn vẫn hối hả ra tiền tuyến, những thanh niên Thọ Sơn vẫn nô nức “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, để rồi khi non sông thu về một mối, Bắc - Nam ca khúc khải hoàn, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn có quyền tự hào về những đóng góp của mình trong chiến công chung của dân tộc.

Đất nước thống nhất, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn vững vàng vượt qua những năm tháng gian nan với những khó khăn do chiến tranh để lại, đồng thời cùng nhân dân cả nước sẵn sàng giáng trả bọn phản động Pôn Pốt, bọn xâm lược Trung Quốc bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc, giữ vững an ninh chính trị, đẩy mạnh sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân xã nhà đã vận dụng linh hoạt đường lối đổi mới của Đảng vào thực tế địa phương, từng bước đưa sản xuất phát triển. Từ một vùng quê người dân thiếu đói quanh năm, Thọ Sơn vươn lên thành một địa phương thâm canh lúa, tổng sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, phát triển kinh tế đồi rừng trở thành thế mạnh của địa phương.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn càng được phát huy cao độ. Kinh tế của địa phương có bước phát triển mới, từ một nền kinh tế thuần nông đến nay tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm trên 50% tổng thu nhập của xã. Các công trình phúc lợi như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ngày càng thêm khang trang, hiện đại. Những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều, thay thế dần những mái tranh ẩm thấp trước kia. Khu trung tâm xã trở thành phố xá với những công ty, đại lý, cửa hàng có giá trị hàng tỷ đồng. Cuộc sống mới đang đâm chồi nẩy lộc trên vùng quê Thọ Sơn giàu truyền thống yêu nước.

Từ một vài đảng viên ban đầu, đến nay Đảng bộ Thọ Sơn đã có 277 đảng viên, giữ vai trò quyết định trong mọi thắng lợi của phong trào cách mạng trên địa bàn xã. Trong quá trình dựng xây và phát triển của mình, Đảng bộ đã rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm không ngừng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng:

Một là: Quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

Hai là:Coi trọng việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng để nâng cao sức chiến đấu, giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng. Chăm lo xây dựng chi bộ, coi chi bộ thực sự là “hạt nhân” của Đảng, qua đó giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên.

Ba là: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và có trách nhiệm cao. Coi trọng công tác quy hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để có đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu hiện tại và tương lai.

Bốn là: Phát huy dân chủ trong Đảng, xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, nhất là trong đội ngũ lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở, coi trọng quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Năm là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo lợi ích về tinh thần, vật chất và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, nhằm tạo nên phong trào cách mạng rộng khắp, động viên sức người, sức của vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở địa phương, phát huy truyền thống của quê hương, nhân dân Thọ Sơn cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng, kiên trung trong chiến đấu. Với những thành tích đạt được hơn 60 năm dựng xây, phát triển, Đảng bộ và nhân dân Thọ Sơn quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng thành công xã nông thôn mới, vươn lên giành thành tích to lớn hơn nữa, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi công cuéc ®æi míi do §¶ng khëi x­íng vµ l·nh ®¹o.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Trước kia làng Bứa, làng Pheo, Bái Đề vốn là làng của người Mường, do dân số ít nên số hộ người kinh từ các nơi đến ngày càng nhiều.

([2]). Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà nội 1981.

([3]). Theo sách Đồng Khánh địa chí dư tập 2 của Quốc sử quán triều Nguyễn.

Lưu ý: xã, thôn, ấp, giáp, tộc, sở, phường đều được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở, tương đương với đơn vị làng. Đơn vị hành chính xã mãi sau CM Tháng Tám mới được hình thành.

([4]). Giai đoạn trước năm 1954 chưa có địa danh Thọ Sơn, chúng tôi dùng “Thọ Sơn”, hay “các làng của Thọ Sơn” để thay cho việc kể tên từng làng.

[5] Thực ra thôn là cách gọi làng theo tên chữ.

[6]Từ “pheo” dùng để chỉ cây tre vốn là một từ của người Kinh Mường cổ, nay chỉ còn người Mường dùng

[7] Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Dịt Dàng (vua) trong Đẻ đất đẻ nước chính là vua Hùng.

[8] Người Kinh và người Mường có chung nguồn gốc từ người Việt Mường.

[9] Khu vực ở các xã Tân Phúc (Nông Cống), Đồng Thắng (Triệu Sơn) cũng có một trang trại lớn do bà Bành (là vợ Nguyễn Chích) phụ trách.

[10] Lịch sử Thanh Hóa tập IV, NXB Khoa học xã hội hà nội 2008, tr 72.

[11] Dẫn lại theo sách Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp của PGS.TS Nguyễn Trọng Văn, NXB Thanh Hóa 2012, tr 47.

[12] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tập 1, NXB Thanh Hóa 200, tr 33.

([13]) Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Thiệu Hóa, năm 1936 đồng chí Trịnh Khắc Sản là Tỉnh ủy viên.

[14] 50 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Sự Thật 1979, tr 73

[15] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Hà nội 1995, tr 152.

[16]Hồ Chí Minh toàn tập.SĐD. tr 8.

[17]Hồ Chủ tịch với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa 2007, tr 14.

[18] Hồ Chí Minh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuấn bản Sự thật Hà Nội, 1970, tr 67.

[19]Từ tháng 2 năm 1948 đổi thành Ủy ban kháng chiến hành chính xã (bỏ chữ kiêm).

[20] Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ và nhân dân Thanh Hóa, SĐD, tr 19.

[21] Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa, SĐD, tr 15

[22] Số tiền, thóc trên chủ yếu do các gia đình nhà giàu, phú hào trong xã ủng hộ. Điển hình là gia đình ông Đoàn Hợi dân tộc Thái ở làng Nác Nã, có căn nhà gác 12 gian, trâu bò hàng trăm con (người dân kể là nhiều không đếm xuể), đã tích cực ủng hộ, trâu bò, bạc trắng cho kháng chiến.

([23]). Bác Hồ với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá. SĐD tr 8.B

([24]) Bác Hồ với Thanh Hoá- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, 1990, tr15.

[25] Từ ngày 10 - 9 - 1955 đổi thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

[26] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận chính trị 2004, tr 183.

([27]). Trường Chinh: Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp - NXB Sự thật 1960-tr 57.

[28] Tính cả các kỳ Đại hội chi bộ xã thì đây là Đại hội lần thứ VII.

[29] Tuyên bố của Cơ –ti Lơ – may (Cutris Lemay), tham mưu trưởng không quân Mỹ.

([30]) 3 giỏi: sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, làm giao thông giỏi.

([31]). 3 khoán, 3 quản: Khoán lao động, khoán công điểm, khoán sản phẩm; quản lao động, quản kế toán, quản tài chính.

[32] Còn gọi là xe cải tiến, là loại xe 2 bánh sắt bọc cao su (không có xăm, lốp), thùng gỗ, 1 người kéo đi trước, 1 người đẩy phía sau.

([33]). Lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch tại Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964 tại Hà Nội.

[34] Lần thứ nhất 7/2/1965-1/11/1968; lần thứ 2: 16/4/1972

[35] Xã Định Công, huyện Yên Định là điển hình tiên tiến về phát triển toàn diện nông thôn ở miền Bắc.

[36]Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2004, tr 308.

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, tr 110.

[38] Học 3 ca: 1 phòng học dùng cho 3 lớp, mỗi lớp 1 buổi (sáng, trưa, chiều).

([39]) Mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thuỷ được xác định là vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc 1984-1989. Trong vòng 4 tháng (4/1984 - 8/1984), Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc. 

 

[40] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, SĐD, tr 292.

[41] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật Hà Nội, 1987, tr 42.

([42])(2)[42]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1996. tr 67.

 

[44] Lịch sử Đảng bộ huyện Triệu Sơn, NXB Thanh Hóa 2005, tr 182.

([45]) (2) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam SĐD tr 308.